Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

Nhà Thơ Nguyên Sa - Tám Phố Sài Gòn

Nguyên Sa Bài Thơ Tám Phố Sài Gòn

Vài nét về nhà thơ Nguyên Sa


Cuộc đời và sự nghiệp của thi sĩ Nguyên Sa – 
Tác giả của Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Cần Thiết… 
CHUYỆN XƯA THI VĂN Trong thi đàn Việt Nam, 

        Nguyên Sa là một cái tên mang dấu ấn đặc biệt quan trọng, được nhiều người yêu mến và kính trọng bởi tài năng thơ ca thiên phú. Còn trong tân nhạc, Nguyên Sa cũng là cái tên quen thuộc khi rất nhiều bài thơ của ông đã được phổ thành những ca khúc bất hủ được nhiều thế hệ yêu thích. 
        Nhạc sĩ Song Ngọc là người đầu tiên phổ nhạc Nguyên Sa với ca khúc Tiễn Đưa,                Nhưng người nhạc sĩ nổi tiếng nhất với thơ Nguyên Sa là Ngô Thụy Miên với các bài hát quen thuộc: 
-    Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba,
-    Paris Có Gì Lạ Không Em, 
-    Tháng 6 Trời Mưa. 
       Ngoài ra còn có nhạc sĩ Anh Bằng với 
-    Mai Tôi Đi, 
    Nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm với 
-    Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết… 
        Dòng dõi danh gia vọng tộc Thi sĩ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1/3/1932 trong một gia đình tri thức khá giả tại Hà Nội. Cha Nguyên Sa là ông Trần Văn Chi, một thương nhân, mẹ là bà Đoàn Thị Xuân. 
        Nguyên Sa nguyên gốc là người Huế, ông cố là Thượng thư Trần Trạm, từng giữ tới chức Hiệp Tá Đại Học Sĩ (1 trong tứ trụ) dưới triều vua Tự Đức. Sau khi về hưu, ông cố Trần Trạm đưa cả gia đình về Hà Nội và phát triển gia nghiệp tại đây từ đời ông nội Nguyên Sa. 
        Gia đình vốn theo đạo công giáo nên ngay từ nhỏ, Nguyên Sa đã được gửi theo học tại trường dòng Puginier, nay là trường THPT Việt Đức. 
        Thi sĩ Nguyên Sa ở trên cùng Cuộc kháng Pháp bùng nổ, trường dòng Puginer bị đóng cửa một thời gian, Nguyên Sa theo gia đình tản cư đi Hà Đông và tiếp tục theo học tại trường Văn Lang. Đến năm 1946, khi mới 14 tuổi, 
        Nguyên Sa bị Việt Minh bắt giữ vì tội làm “Việt gian”. Tuy nhiên, theo hồi ký của Nguyên Sa, nguyên nhân là khi đó, cha ông đang làm việc trong ban kinh tài của Việt Minh. Vì lo sợ cha ông sẽ bỏ trốn nên họ đã giữ con trai để làm tin. Sau 8 tháng bị giam giữ, điều chuyển, Nguyên Sa được thả ra với lý do “bắt nhầm người”. 
        Năm 1948, cả gia đình Nguyên Sa trở về Hà Nội. Một năm sau, năm 1949, ông được gửi đi du học. Đến Pháp, 
       Nguyên Sa bắt đầu theo học lớp 11 tại trường trung học Coulommiers (Seine et Marne). Tuy nhiên, do tuổi trẻ ham chơi, lại xa gia đình không có người kèm cặp, Nguyên Sa liên tục bị ở lại lớp. 
       Gia đình phải chuyển ông qua nhiều trường khác nhau xa Paris để được học tiếp, từ Coulommiers sang trường Rambouillet, rồi trường Provins. Năm 1953, sau hơn 4 năm đến Pháp, cuối cùng Nguyên Sa cũng lấy được bằng tú tài và đăng ký vào khoa Triết học tại Đại học Sorbonne. 
        Cũng trong năm này, Nguyên Sa bắt đầu gặp gỡ, hẹn hò với vợ là bà Trịnh Thuý Nga. Ông sáng tác hai bài thơ đầu tay là Tôi Sẽ Sang Thăm Em và Tiễn Biệt. 


        Thi sĩ Nguyên Sa và bà Nga, hình chụp khi họ còn là học sinh ở Hà Nội .
Sau khi hoàn thành chương trình học và nhận bằng cử nhân Triết Học vào cuối năm 1955, Nguyên Sa cùng vợ lên tàu trở về Việt Nam. 
        Từ năm 1956, Nguyên Sa tham gia giảng dạy môn triết học tại trường trung học Chu Văn An ở Sài Gòn. Để lo kinh tế gia đình, ông còn dạy thêm cả môn Pháp văn và dạy Triết tư tại nhà. Một thời gian sau, Nguyên Sa được giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch mời về dạy tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. 
        Ngoài ra, ông còn cộng tác giảng dạy ở nhiều trường tư thục khác ở Sài Gòn như Văn Lang, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Nguyễn Bá Tòng, Võ Trường Toản,… và cùng với vợ mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi. 
        Bà Nga khi là hiệu trưởng trường Văn Học ở Sài Gòn Năm 1960, Nguyên Sa thành lập tạp chí văn học Hiện Đại, một trong 3 tờ tạp chí nổi tiếng hàng đầu tại miền Nam khi đó. Ngoài thời gian tham gia giảng dạy, ông còn viết bài cho tờ Sáng Tạo của nhà văn Mai Thảo, nhật báo Sống của Chu Tử, tờ Trình Bầy của Thế Nguyên,… Năm 1966, khi đang mải miết với các hoạt động giảng dạy, sáng tác, Nguyên Sa bị gọi nhập ngũ. 
        Sau khi vào học tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, ông được phân về làm việc tại cục quân nhu và giảng dạy tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử trong gần 10 năm từ năm 1967 đến 1975. 
        Thời gian này, ông vẫn tiếp tục sáng tác thơ, viết văn viết báo. Do có hai người con đang du học tại Pháp vào thời điểm tháng 4 năm 1975, nên cả gia đình Nguyên Sa đã quyết định đến Pháp để đoàn tụ với con. 
        Ngày 24/4/1975, Nguyên Sa cùng vợ rời khỏi Việt Nam. Đến Pháp, hai vợ chồng Nguyên Sa cùng nhận được học bổng theo học lớp Cao học kinh tế tại Đại học Pháp. Thời gian này, ông cộng tác với nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh và nhà văn Trần Tam Tiệp thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

Theo trang web chuyenxua net
https://www.yeubinhduong.com/cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-thi-si-nguyen-sa-tac-gia-cua-ao-lua-ha-dong-tuoi-muoi-ba-can-thiet/

Cuộc Sống Thi Ca. Sưu tầm thêm cho bài viết này.


Bài thơ khắc trên mộ Nguyên Sa

Ðến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:

“Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?

Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ Lúc Chết:

“Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
mười ngón tay sờ sọang giữa hư không
đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
em có ngồi mà nghe gió thu phai
và em có thắp hương bằng mắt sáng
lúc ra đi hai chân anh đằng trước
mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời
hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi
đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói
đột nhiên buồn chaỵ đến đứng trên mi
anh chợt nghe mưa gió ở trên kia
thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục
anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc
anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya
trên tay dài giun dế rủ nhau đi
anh lặng yên một mình nghe tóc ướt
nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt
ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
những bài thơ anh đã viết trên môi
lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”

Hết phần trích dẫn bổ túc thêm cho bài viết.


Nguyên Sa & Tám Phố Sài Gòn








Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.

Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường trong tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang năm 1940:

“Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
Lòng chàng có để một tơ vương.
Chàng qua chiều ấy qua chiều khác,
Góp lại đường đi: vạn dặm đường…
Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
Lòng chàng đã dứt một tơ vương,
Chàng qua chiều ấy qua chiều khác.
- Có một người đi giữa đám tang”.

Bài thơ chỉ là tâm trạng của chàng trai khi lang thang trên phố cổ, nếu không ghi “Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường” thì có thể nơi đó cũng gán cho cố đô Huế, phố cổ Hội An…

Bài thơ Hà Nội 36 Phố Phường của khuyết danh (?) in trong quyển Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển của học giả Dương Quảng Hàm ấn hành năm 1942:

“Rủ nhau chơi khắp Long Thành,
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai,
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay,
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày,
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Ngang,
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng,
Hàng Muối, Hàng Nón, cầu Đông,
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè,
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre,
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà.
Quanh đi đến phố Hàng Da,
Trải xem Hàng phố, thật là cũng xinh.
Phố hoa thứ nhất Long Thành,
Phố giăng mắc cửi, đàn quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền”

Như vậy hình ảnh Hà Nội vào thập niên 1940’ tiêu biểu qua tùy bút của Thạch Lam và hai bài thơ.

Với Sài Gòn đã có nhiều tác phẩm trước năm 1975 như hồi ký Địa Danh Cũ Sài Gòn của Bình Nguyên Lộc, Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa & Người Sài Gòn, Giới Thiệu Sài Gòn Xưa (300 Năm)… của Sơn Nam, Sài Gòn Năm Xưa của Vương Hồng Sển… nhưng ít được biết đến như tác phẩm của Thạch Lam.

Thi ca về Sài Gòn từ năm 1975 trở về trước cũng khá nhiều nhưng đặc biệt với bài thơ Tám Phố Sài Gòn của Nguyên Sa.

Trong thời kỳ Việt Minh Trần Bích Lan (Nguyên Sa) bị bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949. Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, học triết tại đại học Sorbonne, Paris. Năm 1955 lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga, gặp nhau trên đất Pháp năm 1953 (bà ở Hà Nội du học năm 1952). Đầu năm 1956, ông bà về sống tại Sài Gòn. Ông dạy triết tại Trường Trung học Chu Văn An, cũng có thời gian dạy triết tại Đại Học Văn khoa Sài Gòn. Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi và dạy triết các trường trung học ở Sài Gòn. Năm 1960, Nguyên Sa thành lập tờ Gió Mới (cùng với Trần Dzạ Từ) và cùng năm Nguyên Sa ra đời tạp chí Hiện Đại nhưng chỉ “thọ” được 9 số.

Nguyên Sa - Trần Bích Lan đã ấn hành những tác phẩm, sách nhiều thể loại Biên Khảo, Truyện Dài, Truyện Ngắn, Bút Ký & Hồi Ký, Sách Giáo Khoa, Triết… nhưng thường gọi là nhà thơ Nguyên Sa với 4 tập Thơ Nguyên Sa (1957-1998). Thơ Nguyên Sa toàn tập (2000) và Nguyên Sa, Cuộc Hành Trình Trên Là Lục Bát do hiền thê của ông ấn hành. Với bút hiệu Hư Trúc (nhân vật trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung) qua các bài viết phiếm, bút chiến, không ân hành tác phẩm nào. Riêng tập thơ Những Năm Sáu Mươi trong thời gian nhập ngũ. Tập thơ nầy không được Bộ Thông Tin cấp giấy phép xuất bản, năm 1971 nhà xuất bản Trình Bày của Thế Nguyên in lén qua hình thức quay roneo, phổ biến hạn chế trong thân hữu.

Tháng 12/1966 ông động viên vào khóa 24 Trường Bộ Binh Thủ Đức và ở trong Ban Biên Tập SVSQ liên khóa 23 & 24 của nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức (tôi biết ông khi ở trong BBT nầy). Ông phục vụ tại Trường Quốc Gia Nghĩa Tử cho đến tháng 4/1975 định cư ở Pháp, sau đó về định cư tại Little Saigon.
(Năm 1998, tôi viết bài Nguyên Sa: Lời Thơ Ý Nhạc... trên tờ Thế Giới Nghệ Thuật, trước khi ông qua đời, ghi rõ về cuộc đời nhà thơ và những bài thơ được phổ nhạc). Vì vậy trong bài viết nầy chỉ đề cập với bài thơ Tám Phố Sài Gòn bài thơ 8 khổ 32 câu vào năm 1965.

Trong Hồi Ký Nguyên Sa (Đời, 1998), gồm bốn phần, không theo trình tự thời gian, ghi chép lại những biến cố trong cuộc sống trải qua những biến động của xã hội cùng những nhân vật thời thế… Trong đó ông đề cập đến bài thơ Tám Phố Sài Gòn, theo ông ghi lại trong hồi ký thì bài thơ nầy xuất hiện trên Số Xuân năm 1965 của tờ Văn theo lời yêu cầu của ông Nguyễn Đình Vượng. (Tạp chí Văn, do Trần Phong Giao đảm nhận từ số 1 năm 1964 đến cuối năm 1971. Ông Nguyễn Đình Vượng mời hai nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng và Mai Thảo thực hiện cho đến tháng 4/1975).

Tám Phố Sài Gòn
“Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo
Có nghe đôi mắt vòng quanh áo
Năm ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài Gòn phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung
Sài Gòn ngồi thư viện rất nghiêm
Tờ hoa trong sách cũng nằm im
Đầu thư và cuối cùng trang giấy
Những chữ y dài trông rất ngoan
Sài Gòn tối đi học một mình
Cột đèn theo gót bóng lung linh
Mặt trăng theo ánh đèn: trăng sáng
Đôi mắt trông vời theo ánh trăng
Sài Gòn cười đôi môi rất tròn
Vòng cung mầu đỏ, nét thu cong
Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng
Hay đã đưa dần sang nhớ mong
Sài Gòn gối đầu trên cánh tay
Những năm mười sáu mắt nhìn mây
Chiếc tay tròn ánh trăng mười bốn
Tiếng nhạc đang về dang cánh bay
Sài Gòn nắng hay Sài Gòn mưa
Thứ Bảy Sài Gòn đi Bonard
Guốc cao gót nhỏ mây vào gót
Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ
Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân
Lưng trời không có bầy chim én
Thành phố đi về cũng đã Xuân”

Bài thơ cho báo Xuân mà chỉ có chữ Xuân cuối bài thơ. Sài Gòn tám phố, tuy có mười lần nhắc đến tên Sài Gòn và hình ảnh con đường Bonard vào thời Pháp thuộc đã đổi tên đường Lê Lợi sau năm 1954.

Lúc đó nhà thơ Nguyên Sa đã nổi danh nên không có ai nói tám phố Sài Gòn mà chẳng thấy hình ảnh tám phố thế nào (như bài thơ về Hà Nội của Nguyễn Bính), ít ra như Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn của nhà thơ Du Tử Lê:

“Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ em xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh…
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
Nắng Trương Minh Giản trưa hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường”

Bài thơ nầy được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc cùng tên và tôi đã viết vào năm 2007 khi uống cà phê với nhau, được Du Tử Lê chia sẻ.

Về địa danh, ngày 22/10/1956 của Tổng Thống VNCH ban hành sắc lệnh Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi thành Đô Thành Sài Gòn có 8 quận: Quận Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám.

Ngày 10 tháng 10 năm 1965, Tổng Long Vĩnh Hạ lại được tách khỏi quận Dĩ An, nhập trở lại quận Thủ Đức. Năm 1967 xã An Khánh được cắt khỏi quận Thủ Đức, nhập vào Quận 1 của Đô Thành Sài Gòn và được chia thành hai phường là An Khánh và Thủ Thiêm. Sau, 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm lại được tách ra để thành lập Quận 9 của Đô Thành Sài Gòn. Tuồng cải lương “Ông Cò Quận 9” hay “Tuyệt Tình Ca” của Hà Triều - Hoa Phượng vào năm 1965, lúc đó chưa có quận 9 nên đặt tên để tránh sự đụng chạm.

Sau Tết Mậu Thân 1968, người dân tản cư về Đô Thành sinh sống rất đông vì vậy Tòa Đô Chánh Sài Gòn thành lập thêm hai quận nầy vào khoảng tháng 7/1969, nâng số quận tại Đô Thành thành 11 quận.

Với bài thơ Paris Có Gì Lạ Không Em? và Tám Phố Sài Gòn là hai địa danh qua dòng thơ Nguyên Sa trải qua nhiều thập niên vẫn được yêu thích. Với tâm hồn lãng mạn với hình ảnh giai nhân trong Tám Phố Sài Dài Gòn như: Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants. Có nghe hơi thở cài vương miện. Lên tóc đen mềm nhung rất nhung… Guốc cao gót nhỏ mây vào gót. Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ”. Trong khi Paris Có Gì Lạ Không Em với hình ảnh: “Anh về giữa một giòng sông trắng, Là áo sương mù hay áo em?... Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay. Tóc em anh sẽ gọi là mây… Vì em hay một vừng trăng sáng. Đã đắm trong lòng cặp mắt em?”có lẽ không dễ thương như bóng hồng ở Sài Gòn (?).

Tạp chí Văn Học số 99, ngày 15/12/1969 với chủ đề Nguyên Sa, thi sĩ của tình yêu. (Trong số nầy có cuộc phỏng vấn của Vũ Bằng, Thượng Sỹ, Phan Kim Thịnh với Nguyên Sa và nhà thơ nói đến quan điểm về thơ). Ngoài những nhà thơ từ thời tiền chiến, Nguyên Sa là một trong những nhà thơ trẻ ở miền Nam VN vào giữa thập niên 1950’ & 1960’ nổi bật về lãnh vực nầy. Tuy nhiên trong Hồi Ký Nguyên Sa “Tôi là người làm thơ, thơ tình, mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương, dân tộc tôi”

Những bài thơ tình lãng mạn của ông như “thông điệp tình yêu” (bài thơ Cần Thiết) của một thời sinh viên, học sinh đi vào lớp học “Không có anh lấy ai đưa em đi học về. Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học” hay “Thơ học trò anh chất lại thành non. Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu” và “Cả những giờ bên lớp học, trường thi. Tà áo khuất thì thầm: ‘chưa phải lúc...’. Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường”…

Bài thơ Buổi Sáng Học Trò với hình ảnh: “Trang sức bằng nụ cười phì nhiêu. Nhẩy bằng chân chim trên giòng suối cạn. Ấy là em trên đường đi buổi sáng. Trăng ở trên môi và gió ở trong hồn. Mái tóc mười lăm trên lá tung tăng. Em ném vào phố phường niềm vui rừng núi”. Nụ cười phì nhiêu không có trong tự điển và đây lần đầu tiên nhà thơ đề cập đến.

Bài thơ Áo Lụa Hà Đông với tuổi học trò mới chớm yêu mà “Gặp một bữa anh đã mừng một bữa. Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn. Thơ học trò anh chất lại thành non. Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu”. Nhiều bài thơ của Nguyên Sa đã được phổ nhạc, bài thơ nầy Ngô Thụy Miên phổ nhạc năm 1971 và sau nầy ở hải ngoại đến với nhau với nhiều tình khúc, điển hình như: Tháng Sáu Trời Mưa, Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi Mười Ba, Cần Thiết… (Bài thơ Cần Thiết trước kia do Song Ngọc phổ nhạc, và nhạc sĩ Anh Bằng dựa theo ý thơ phổ thành ca khúc Nếu Vắng Anh vào năm 1971. Khi nhạc phẩm được ấn hành cũng là món quà của người lính tặng cho người yêu khi rời hậu phương).

Trong bài thơ Tám Phố Sài Gòn, nhà thơ không phải là người con của Nam Kỳ Lục Tỉnh mà viết “Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng”, chữ “cưng” là cách xưng hô quen thuộc, thân mật, trìu mến, thông dụng trong giao tiếp với nhau dù thân, sơ trong gia đình, ngoài xã hội của người miền Nam. Sau nầy rất phổ biến trong đôi lứa, bạn bè (nữ) và người thân. Trong các tác phẩm của Hồ Trường An thường dùng các gọi chữ “cưng” như “mèn ơi! Cưng”…

Nửa thế kỷ trôi qua, sống nơi xứ người, tuy không còn tên Sài Gòn nữa nhưng với nơi chốn đó “gọi nhau bằng cưng” cảm thấy như người thân.

Những lời ngắn ngủi, chân tình như: “Cưng ơi, chỉ dùm nhà của bà X… Chỗ này có ai ngồi không cưng?”, “Mua giùm dì đi cưng”... Khi thấy tai nạn xảy ra “Trời ơi, có sao hông cưng!”, “Tội nghiệp cưng quá”… Chỉ một chữ nhưng thể hiện nét đẹp trong văn hóa xử thế… Là dân Hà Nội, khi sống trong Nam, nhà thơ nhân cách hóa địa danh rất tuyệt.

Qua biến thiên của cuộc đời, nhà thơ Nguyễn Đình Toàn với nỗi niềm với Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên. Mất từng con phố đổi tên đường... Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi. Như trường xưa mất tuổi thiên thần... Còn gì đâu...”. Và nay, người con xa xứ vẫn coi nơi chốn nầy như câu thơ Nguyên Sa “Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng” khi nhà thơ nhân cách hóa rất tuyệt.

Sau thời gian lâm bệnh, sau khi giải phẫu, sức khỏe yếu kém, nhà thơ qua đời ngày 18/4/1998. Là nhà giáo, nhà văn với nhiều sách, tác phẩm nhưng thơ là tim, óc của Nguyên Sa, có lẽ bài thơ Sợi Tóc sáng tác cuối cùng như “di cảo” khắc trên mộ bia của nhà thơ ở Peek Funeral Home (Little Saigon) khắc 6 câu thơ lục bát:

“Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

Nhà thơ Nguyên Sa của Sài Gòn năm xưa, khi định cư tại Paris có nhiều bạn bè, thân hữu nhưng bỏ “kinh đô ánh sáng” đến miền nắng ấm Nam California và an giấc nghìn thu tại nghĩa trang ở Little Saigon vĩnh viễn “Nằm chơi ở góc rừng này”. Trần Bích Lan trở về thuở nguyên sơ hạt cát (sa) nhưng hạt cát vĩnh cữu trong dòng sinh mệnh Văn Học Việt Nam.

Little Saigon, August, 2024
Vương Trùng Dương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét