Trận Chiến Dành Dân Lấn
Đất 1972
AET. Lê Tuấn
Những tháng cuối năm 1972. Tình
hình chiến sự trở nên rất sôi động. Cả hai bên tham chiến đang chuẩn bị cho một
chiến dịch Dành Dân Lấn Đất. Trên những trang báo hàng ngày, những bản tin thời
sự nóng bỏng nhất vẫn là những gì liên quan đến Hiệp Định Paris. Một hiệp định
4 bên, nhưng trên thực tế đó chỉ là một hiệp định hai bên, đang bàn thảo gay go
giữa Mỹ và Cộng Sản Bắc Việt.
Theo tinh thần căn bản của Hiệp Định
Paris là chấp nhận một giải pháp da beo,
bằng những vùng đất trái độn, vùng đất nào được cắm
cờ đại diện của phe nào thì vùng đất đó thuộc quyền của bên đó chiếm đóng.
Cuối cùng thì Hiệp Định Paris đã được
ký kết vào tháng 1 năm 1973. Đây cũng
chính là một cơ hội để người Mỹ tháo chạy khỏi cuộc
chiến tranh Việt Nam.
Chính vì giải pháp da beo của hiệp
định Paris, cho nên những tháng cuối năm 1972 tình hình chiến sự đã trở nên rất
sôi động. Trong địa bàn hoạt động của Đại đội 3, Tiểu đoàn 338 Địa phương Quân,
trực thuộc Tiểu Khu Hậu Nghĩa, bao gồm 4 Chi Khu rất nổi tiếng đó là Trảng
Bàng, Củ Chi, Đức Hòa và Đức Huệ.
Tháng 6 năm 1972, Đại đội 3/338
ĐPQ, do Trung úy Phi làm đại đội trưởng và tôi đại đội phó. Đơn vị chúng tôi được
tiểu đoàn điều động đến đóng quân tại Ấp Bình Thủy 1, nhầm bảo vệ vành đai cho
Chi Khu Đức Hòa.
Trên con đường Hương lộ nối dài từ
Đức Hòa đến Hốc Môn, con đường này chạy xuyên qua một địa danh cũng khá nổi tiếng
trong sử học, đó là khu vực (Mười Tám Thôn Vườn Trầu), và con đường này cũng chạy
ngang qua một vùng rộng lớn đó là bưng Mũi lớn (vùng nước ngập hoang dại, đầy cỏ
năng, một loại cỏ ống thân tròn, rất thích nghi trong vùng đầm lầy ngập nước. Cỏ
năng thường được người dân gặt hái bằng ghe xuồng, đem về phơi khô đập dập để
đan thành những tấm đệm cói, hình thức như chiếc chiếu, hay những túi xách, những
bao tải, đây là một việc làm rất phổ biến của người dân địa phương).
Địa danh Mũi Lớn đã gợi nhớ lại
trong tôi một trận chiến mà chính tôi đã tham dự. Vào cuối năm 1969 hay đầu năm
1970, lâu ngày tôi đã quên mất.
Một hôm tôi được lệnh cùng với hai
trung đội nằm ứng chiến tại một bãi đáp trực thăng trong Chi Khu, anh em chúng
tôi đang nằm dài trên bãi cỏ nghỉ ngơi, vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện tếu,
nhìn đồng hồ đã gần 2 giờ chiều, tôi nghĩ chắc không có chuyện gì xẩy ra, lâu
lâu có một ngày nghỉ thoải mái. Gần 2 giờ trưa tôi đang nằm mở màng vừa định chợp
mắt một chút, thì tôi chợt nghe Trung Sĩ Tốt truyền tin gọi tôi.
-
Ông thầy có lệnh chuẩn bị hành quân.
Tôi cầm lấy ống nghe và được biết
đây là lệnh của BCH Tiểu Đoàn.
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng ra lệnh
cho đơn vị tôi sẽ dưới quyền điều động của Phòng 3 Tiểu Khu, người trực tiếp ra
lệnh cho tôi chính là Thiếu Tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu.
Ông ra lệnh cho đơn vị tôi phải sẵn sàng, sẽ có trực
thăng đến bốc.
Tôi ra lệnh cho 2 trung đội trưởng
chuẩn bị hành quân trực thăng.
Khoảng 15 phút sau, hai chiếc trực thăng đáp xuồng
sân Chi Khu Đức Hòa.
Trực thăng đã bốc đơn vị tôi, bay
thẳng đến bưng Mũi Lớn.
Từ trên cao chúng tôi đã nhìn thấy
một vùng nước bao la và những đám cỏ năng mọc
um tùm từng khu vực. Trực thăng hạ xuống thấp dần, sức
mạnh của cánh quạt đã hất tung mặt nước và làm cho đám cỏ năng nằm rạp xuống.
Tiếng của Thiếu tá trưởng phòng 3 từ
trên trực thăng quan sát.
Ông ra lệnh như hét vào trong máy.
-
Anh có thấy VC đang nhảy xuống nước.
Tiếng súng bắt đầu nổ, tiếng cánh
quát của trực thăng vần vũ, viên phi công cho trực thăng hạ thấp xuống sát mặt
nước đổ quân.
Tôi và tất cả anh em đều nhảy ra khỏi
trực thăng.
Vừa nhảy xuống, nước đã ngập lên tới
ngực. Chúng tôi đã xác định mục tiêu phía trước. Vì tiếng ồn của trực thăng,
tôi phải hét lên ra lệnh cho tất cả lính giàn thành hàng ngang. Tất cả đơn vị
đã tản ra thánh một hàng ngang, trườn người trên cỏ năng và tiến lên.
Những tràng đạn M16 đã nổ liên tục,
cánh quạt của trực thăng bay vần vũ trên đầu, sức mạnh của nó đã thổi tung mặt
nước và những ngọn cỏ năng nằm rạp theo.
Những tên du kích VC lặn dưới nước
không chịu được lâu đã vội ngoi đầu lên, họ chưa kịp lên tiếng đầu hàng thì đã
gục ngã trước lằn đạn M16.
Tiếng của Thiếu tá trưởng phòng 3 từ
trên trực thăng quan sát.
-
Ông hét lên trong máy truyền tin ra lệnh
cho tôi phải bắt sống
Tôi một tay cầm ống nghe truyền
tin, một tay cầm súng.
Tôi đã hét muốn bể cả cuống họng,
ra lệnh bắt sống nhưng không một người lính nào nghe theo, vì tiếng ồn của trực
thăng vì tiếng súng, tất cả đã tạo thành một âm thanh hỗn loạn, tiếng nói của
tôi không đủ sức, chỉ một số anh em đứng gần tôi nghe lệnh, họ đã cùng tôi hét
to lên, lệnh bắt sống.
Tiếng trực thăng, tiếng súng và mùi
khói của thuốc súng đã tạo thành một tình huống thật phấn kích. Người lính chỉ
còn biết tuân theo một phản xạ tự nhiên đó là bóp cò súng, khi bất ngờ nhìn thấy
đối phương vừa chồm lên khỏi mặt nước.
Tất cả đã quá muộn, một trận chiến
xẩy ra quá bất ngờ, quá nhanh gọn, không đầy một tiếng đồng hồ. Tổng số có 8 du
kích bị thiệt mạng, một vùng nước trong xanh mầu da trời, bây giờ đã nhuộm đỏ mầu
máu.
Đó cũng là quy luật rất vô tình của
chiến tranh.
Tiểu đội du kích này đã thiết lập một
căn cứ trú ẩn tại nơi đây từ lâu. Họ đã khéo léo chui vào giữa bụi cỏ năng (một
bụi năng có một chu vi rất lớn, đôi khi 4 người vòng tay nhau mới ôm hết một bụi
năng). Từ giữa đám cỏ năng, họ đã cắt sát mặt nước tạo thành một khoảng trống,
họ sử dụng cây chàm cắm xuống nước và phía trên làm thành một cái xạp có thể nằm
ngủ từ 2 dến 3 người, trên xạp cũng là nơi để nấu ăn.
Những cọng cỏ năng ở chung quanh còn
xanh tươi, họ khéo léo kéo hai bên vào nhau
rồi đan bện lại, tạo thành một mái che mưa che nắng,
hình thức như một tổ chim.
Nhìn từ phía ngoài thì bụi năng vẫn
xanh tươi, rất khó phát hiện ra bên trong là nơi chú ẩn. Thật là không may cho
họ lần này vì máy bay trực thăng bay thấp, sức gió của cánh quạt đã làm lộ rõ
nơi trú đóng, vì vậy đơn vị du kích này đã bị xóa sổ.
Thiếu Tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu tỏ
ra bực bội vì đơn vị tôi không bắt sống được du kích nào, ông ra lệnh cho trực
thăng bay về Tiểu Khu.
Bỏ lại tôi và 2 trung đội ở lại thu
dọn chiến trường, chúng tôi lục lạo mọi nơi, lặn cả xuống nước mò tìm súng AK47
và B40. Tổng kết lại trận chiến, đơn vị tôi đã tịch thu được 6 khẩu AK47 và 2
khẩu B40, một số đạn và tài liệu, ngoài ra còn hai chiếc ghe nhỏ, mà toán du
kích này sử dụng làm phương tiện di chuyển, đã bị bắn gần bể nát không sử dụng
đươc.
Phải lội nước tìm đường trở vế đơn
vị. Để tránh bị địch tấn công bất ngờ và cũng để giữ an toàn cho đơn vị, tôi ra
lệnh cho anh em đi hàng một, chọn ra hai người lính bơi lội giỏi đi trước dẫn
đường.
Sự im lặng lại trở về giữa đất trời
bao la, mênh mông một vùng nước trong xanh, chúng tôi mò mẫm trong vùng nước ngập
và cỏ năng mọc qua đầu, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng người lính dẫn đầu nói:
“coi chừng có hố bom rất sâu”, chúng tôi lại phải đi vòng theo miệng hố bom.
Vùng đất này là vùng oanh kích tự do, đôi khi đã bị B52 trải thảm, vì vậy nơi
đây có nhiều hố bom rộng lớn và khá sâu, nếu sơ ý có thể lọt xuống hố bom, vướng
rễ cây và cỏ năng, rất khó bơi thoát thân.
Trời càng về chiều
ánh nắng càng dịu đi, tạo thành một bầu không khí rất thoáng mát, và thật thanh
bình. Những âm thanh hỗn loạn và mùi thuốc súng của trận chiến vừa qua gần như
tan biến mất, không còn để lại dấu vết nào, chỉ còn nghe tiếng lội nước bì bõm,
và thỉnh thoảng nghe tiếng chim le le và tiếng vịt trời vỗ cánh bay, bầu trời
càng lúc càng mờ dần, anh em chúng tôi đã nhìn thấy mập mờ, một gò đất và thấp
thoáng những ngọn tre xanh.
Cuối cùng chúng tôi đã lội bộ về tới
đơn vị. Sau khi kiểm tra lại quân số tôi bàng hoàng đau sót vì thiếu mất một
người lính.
Tôi hỏi Chuẩn úy Tính trung đội trưởng
-
Anh biết tên ai không, Chuẩn úy Tính cho
tôi biết người lính mất tích là binh nhất Vận (biệt danh Hai đen).
-
Vận là người dân địa phương rất quen thuộc
với đồng ruộng và bơi lội giỏi, thường hay lội theo những con rạch để bắt cá bằng
tay không.
Sáng hôm sau tôi cho người, mượn
ghe của dân trở lại vị trí hôm qua để tìm.
Trong thời gian này người dân trong Ấp cũng biết tin
về trận chiến hôm qua.
Chính quyền Ấp đã thông báo cho dân đi lấy xác các
du kích, đem về cho thân nhân nhận dạng và chôn cất. Thật là đau buồn khi anh
em đã phát hiện dưới hố bom nơi binh nhất Vận đã tử trận.
Hai Đen đã chết ngồi dưới hố bom
sâu, chân và ba lô sau lưng bị vướng chằng chịt cỏ năng và rễ cây, chính những
bụi cỏ này đã giữ chặt thân xác anh ở lại để cùng chết với 8 người du kích Việt
Cộng.
Sau này anh em còn cho tôi biết
thêm một chi tiết về cái chết của Hai Đen. Lý do chính là Hai Đen quá tự tin
vào khả năng bợi lội của mình, nên đã tự ý tách ra đi riêng một bên không theo
hàng một, cho nên khi bị sụp xuống hố
bom, không ai nhìn thấy vì khi ấy trời qúa tối.
Vào khoảng xế trưa người dân dã đem
tất cả 8 du kích về Ấp Bình Thủy cho thân nhân nhận dạng và chôn cất.
Kể từ hôm ấy, tôi không có cảm tình
với Thiếu tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu, lâu ngày tôi đã quên tên ông.
Tôi biết sau trận chiến này, ông đã
được gắn những huy chương danh dự. Riêng cá nhân tôi cũng được Tiểu Khu ban thưởng
một Anh Dũng Bội Tinh.
Tôi nghĩ nếu huy chương này mang một
ý nghĩa thật sự của nó, thì nó phải được gắn một cách long trọng trên nắp quan
tài của người lính chết trận.
Đó cũng chính là quy luật của chiến
tranh, mà cả hai bên tham chiến đều phải tuân theo. Súng đạn thì vô tình, chỉ
có những chủ thuyết, những ý thức hệ lệch lạc mới đem con người đến chiến tranh
để rồi tàn sát lẫn nhau.
Như tôi đã viết ở phần đầu câu chuyện.
Những ngày tháng cuối năm 1972,tình hình chiến sự rất sôi động. Ban đêm đơn vị
tôi phải đi phục kích, nằm bờ ngủ bụi canh phòng cho người dân được một giấc ngủ
bình yên không bom đạn.
Ban ngày đơn vị tôi phải đi phá mô,
do VC ban đêm lén lút đắp mô ngăn chận giao thông, gây tâm lý bất ổn trong dân,
công việc thường làm nhất trong giai đoạn này là đi tháo gỡ cờ của Việt Cộng.
Trong giai đoạn dành dân lấn đất, VC thường lén lút cắm cờ trên các vị trí cao
nhất trong khu vực, chúng thường cắm cờ trên ngọn cây Cau và trên những ngọn
Tre.
Với mục đích tranh dành lãnh thổ, để
hy vọng rằng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, chúng sẽ nhận đây là vùng đất
của Cộng Sản. Ngoài việc cắm cờ chúng còn thường xuyên đắp mô trên Hương Lộ, ngay cả những con
đường đất trong Ấp, nhầm mục đích gây hoang mang trong dân.
Mỗi khi phát hiện khu vực bị cắm cờ,
tôi thường đem một đơn vị nhỏ đến tháo gỡ, cách thức thường làm nhất của tôi là
nhắm bắn từng phát cho lá cờ gẫy đổ rơi xuống đất.
VC thường gài lựu đạn và mìn bẫy dưới lá cờ, và cả gốc
cây chung quanh khu vực, tốt nhất là phải bắn thăm dò trước khi bước đến, đây
cũng là biện pháp bảo vệ an toàn cho lính và cho dân chúng.
Âm mưu dành Dân Lấn Đất mà VC đang
thực hiện trong thời gian chuẩn bị ký kết
Hiệp Địng Paris, đã bị lực lượng ĐPQ và Nghĩa Quấn dẹp
tan.
Tôi chợt nghĩ vào thời điểm năm
2013. Nếu như Việt Nam có một hiệp địng nào tương tự như Hiệp Định Paris 1973.
Chấp nhận một giải pháp trái độn, một hình thức da beo. Phía bên nào cắm lá cờ
của mình, thì vùng đất đó sẽ được thừa nhận là vùng đất của bên có lá cờ làm biểu
tượng.
Tôi nghĩ tất cả người dân Việt Nam,
sẽ đồng loạt cắm cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, khi đó lá cờ VNCH sẽ tung bay trên khắp
lãnh thổ Việt Nam. Để nói cho Cộng Sản biết rằng.
Nơi đây chính là vùng đất Tự Do.
Một buổi sáng sớm tôi đang ngồi
trên bao cát của bờ thành hút thuốc lá, nhìn làn khói thuốc bay tỏa vào không
gian, một làn gió lành lạnh nhẹ lướt qua, thời tiết tháng 12 trời sẽ lạnh nhiều
hơn vào ban đêm và buổi sáng.
Tôi nhìn xa về cuối thôn, những khoảng
ruộng đã gặt hái xong, bây giờ chỉ còn lại những gốc rạ vàng khô, và phía xa
kia là những hàng tre xanh thắm, cả một vùng rộng lớn không một bóng người dân.
Chiến tranh đã cướp mất, sự thanh
bình yên ấm của một vùng thôn quê hiền hòa.
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì người lính gác cổng
chạy vào báo tin.
-
Ông thầy có người đẹp đến thăm.
Tôi hỏi ai vậy. Người
lính trả lời:
-
Em gái hậu phương, ông cứ ra ngoài sẽ biết.
Tôi bước ra ngoài phía
cổng.
Thấp thoáng một bóng dáng thôn nữ, tay cầm nón lá
đang tiến về phía đơn vị. Bóng dáng người con gái đi dần về phía cổng, tôi đã
nhận ra hình bóng đó là ai.
Lan thường mặc bộ áo bà ba, hôm nay
nàng mặc một chiếc áo bà ba mầu mạ non, hai bên hông xẻ hơi cao để lộ một làn
da trắng mịn, cái quần đen bóng láng, ôm sát đôi mông căng tròn, biểu lộ một sức
sống mãnh liệt của tuổi con gái dậy thì.
Hôm nay nàng rất đẹp, cái đẹp tự
nhiên của một thôn nữ, chen lẫn với cái đẹp xuân thì rất gợi tình, đầy nữ tính
của con gái.
Đã gần 2 tháng nay Lan không đến
thăm tôi, hôm nay không hẹn trước Lan bất ngờ đến thăm. Cứ mỗi lần đến thăm Lan
thường ở lại với tôi vài ngày, và cả hai chúng tôi lại có dịp quấn quít bên
nhau.
Tôi đón Lan từ cổng đi vào trong đồn,
ngang qua hầm chỉ huy đại đội.
Lan mỉn cười và gật đầu chào mọi người.
Trung úy Phi đang ngồi chơi Domino
với 2 Chuẩn úy trung đội trưởng.
Phi vừa nói vừa cười.
-
Tối nay thằng Tuấn nó sẽ pháo kích, tụi
mình phải chui vô hầm né đạn.
Mọi người cùng cười. Tôi và Phi là hai
người bạn, chúng tôi quen thân nhau từ những ngày đầu, khi cả hai vữa thuyên
chuyển về Tiểu Khu Hậu Nghĩa, và cả hai cùng về Tiểu Đoàn 338, khi ấy BCH Tiểu
Đoàn 338, đang đóng quân tại Chi Khu Đức Huệ.
Nằm ngay trong khu vực của nhà máy
đường Hiệp Hòa, một nhà máy rất lớn từ thời Pháp để lại, nhưng đã ngưng hoạt động
từ lâu.
Tôi đưa Lan vào trong căn hầm trúng
ẩn của tôi, vừa bước qua cửa hầm tôi đã vòng tay qua lưng nàng, ôm chặt vòng eo
thon gọn và quay người Lan về phía mính, tôi ôm chặt Lan và đặt lên mồi nàng một
nụ hôn thật say đắm.
Lan đẩy nhẹ tôi ra và nói:
-
Làm gì gấp vậy anh.
Tôi vừa cười vừa trả lời:
-
Lính mà em.
Buổi chiều tối hôm đó, chúng tôi có
một bữa nhậu thật ngon, một nồi cháo gà do Lan nấu và mấy xị rượu đế loại ngon.
Và dĩ nhiên tối hôm đó chúng tôi lại nằm bên nhau như một đêm tân hôn.
Qua câu chuyện tâm tình, Lan cho biết
gần hai tháng qua, nàng phải lên Tây Ninh ở nhà người bà con. Vì tình hình chiến
sự càng ngày càng gay go hơn. Lan cho tôi biết 3 ngày nữa Lan phải rời xa tôi
không biết bao giờ mới gặp lại. Tôi hỏi tại sao nhưng Lan không trả lời câu hỏi.
Lan chỉ nói:
-
Thôi đừng nhắc đến, chúng ta cứ vui như
không có chuyện gì xẩy ra, em sẽ ở lại
bên anh 2 ngày, đến ngày thứ 3 thì em phải về nhà.
Trong đêm cuối cùng nằm bên tôi,
hình như Lan ôm tôi chặt hơn, nàng đòi hỏi nhiều
hơn, như cố níu kéo một điều gì đó sắp tan biến đi.
Tôi có một linh tính như, đây là lần cuối chúng tôi được nằm bên nhau.
Tiếng con gà trống nuôi trong đồn cất
tiếng gáy vang, hình như nó đã gân cả cổ, để cất lên một tiếng gáy nghe rất oai
hùng. Từ những bụi tre xanh thẳm trong thôn xóm, tiếng gà gáy vang vọng đáp lại.
Chúng tôi cùng thức dậy, đun nước
sôi pha café. Trời còn mờ sáng, tôi ngồi trên cái thùng đạn pháo binh cũ, đốt một
điếu thuốc đầu tiên trong ngày, trên tay là ly café còn bốc khói, lan tỏa một
hương vị thơm phức, mặc dù đây chỉ là loại café hạng bét.
Lan nhìn tôi, rồi lên tiếng:
-
Hôm nay em phải về nhà vì tối mai. Nàng
bỏ lửng câu nói.
Tôi vội hỏi:
-
Tối mai làm sao?
Lan bưng ly café bước đến ngồi cạnh
bên tôi, nàng ngồi im lặng nhìn xa xăm, một lúc sau Lan nói thật khẽ vào tai
tôi:
-
Tối mai ba em cho người về nhà bắt em phải
ra mật khu. Em không muốn, nhất là
em không muốn xa anh, nhưng cả gia đình em đếu muốn
như vậy.
Nghe đến đây tôi thật bàng hoàng, tự
nhiện nỗi buồn lại chợt đến.
Nhà Lan không đâu xa, chỉ cách nơi tôi và Lan đang
ngồi vài thửa ruộng. Tôi nhớ lại những ngày đầu chúng tôi mới quen nhau.
Một buổi sáng tôi cùng đơn vị, sau
một đêm đi phục kích, trên đường trở về đồn, chúng tôi dừng chân bên Hương Lộ,
nơi đây dân địa phương gọi là Quán Đôi, bởi vì tại ngã 4 này có hai quan lợp
tôn nằm gần nhau, cả hai đều bán tạp hóa và dĩ nhiên có bán rượu đế, beer, nước
giải khát và café .
Tôi đang ngồi hút thuốc uống café
bên trong quán, thi một chiếc xe lôi (loại xe Honda, hay xe đạp, có kéo theo một
cái thùng xe phía sau, có thể chở được nhiếu người)
Chiếc xe lôi dừng lại trước quán,
cho vài người bước xuống xe, trong đó có bóng dáng một thiếu nữ, mặc bộ bà ba mầu
xanh da trời, nhìn thoáng qua tôi đã nhận ra một cô thôn nữ còn quá trẻ, đang ở
tuổi dậy thì, đôi tám trăng tròn.
Dáng người hơi thấp, mái tóc đen
óng xõa ngang vai, thân hình đẫy đà cân đối, nét mặt thật tươi với ánh mắt
trong sáng và nụ cười luôn nở trên môi. Cô gái bước vào quán, một vài người
lính trầm trồ nhìn theo, cô gái hình như quá quen thuộc với chủ quán, nên hai
người nói chuyện với nhau.
Tôi đưa mắt nhìn Tư người lính mang
máy truyền tin ngồi cạnh tôi
Với ngụ ý như hỏi ai đó?
Tư cho tôi biết đó lá cô Lan, nhà ở
gần đồn của mình,
Tư còn nói nhỏ với tôi.
-
Cô Lan chưa có thẻ căn cước nghe ông thầy.
Tôi hỏi:
-
Nghĩa là sao Tư.
Tư cười nhìn tôi, như ngầm nói một
ngụ ý nào đó.
Tôi chợt hiểu ý ghĩa mà Tư muốn nhắc cho tôi biết,
nên thận trọng. Tôi vừa nhìn về phía Lan thì bất chợt Lan cũng đang nhìn tôi.
Tôi mỉm cười và gật đầu chào. Cô gái bẽn lẽn quay đi nơi khác.
Kể từ hôm đó mỗi lần có dịp ghé
Quán Đôi, tôi thường hỏi thăm về Lan.
Rồi từ đó chúng tôi quen nhau. Tôi đến với Lan thật
tình cờ và Lan đã đón nhận tình yêu này cũng thật tình cờ. Như một tiếng xét ái
tình, hay một trận cuồng phong của dục vọng mà cả hai đều trong giai đoạn hưng
phấn nhất của tuổi trẻ.
Em là bóng đổ chiều rơi
Là chai rượu cạn chơi vơi lối về.
Tôi đã đến với Lan thật nhẹ nhàng,
như một cơn say đầy cảm hứng vào một buổi chiều mưa, tại một vùng thôn quê thật
thanh bình.
Tôi đang suy nghĩ miên man về những
ngày đầu mới quen biết Lan.
Lan đứng lên cầm lấy chiếc nón lá
và nói:
-
Thôi em phải đi về.
Tôi chợt giật mình nhìn Lan. Tôi cầm
lấy tay Lan, như muốn níu kéo, như muốn cố giữ lấy một cái gì đó sắp tuột khỏi
tầm tay.
Tôi đưa Lan ra cổng. Bóng Lan đi, mờ
khuất dần như tan biến vào hàng tre xanh thẫm cuối thôn.
Tình hình hành quân lại sôi động,
những tin tức VC đắp mô, cắm cờ đang liên tục xẩy ra. Càng về cuối năm Cộng
quân lại càng đẩy mạnh chiến dịch Dành Dân Lấn Đất mạnh mẽ hơn.
Hôm nay Đại Đội tôi nhận lệnh từ
BCH Tiểu Đoàn cho biết, theo như tin tình báo của Chi Khu. Đêm nay sẽ có khoảng
một trung đội Chính quy của VC, sẽ phối hợp với du kích địa phương, về hoạt động
trên Hương Lộ, rất gần với vị trí Quán Đôi.
Chúng sẽ đào đường đắp mô và cắm cờ,
mục đích ngăn chận giao thông trên con đường huyết mạch này, đó là Hương Lộ nối
liền từ Đức Hòa với quận lỵ Hốc Môn. Chúng muốn tạo tiếng vang trong dân.
Đêm nay, tất cả Đại Đội sẽ hành
quân từ đồn Bình Thủy tiến về vị trí Quán Đôi , bố trí nằm phục kích trên đoạn
đường này. Chúng tôi chỉ để một trung đội ở lại giữ đồn, cùng với khẩu súng cối
60 ly và khẩu đại liên M60.
Trời vừa chạng vạng tối đại đội
chia làm 3 cánh quân tiến về hướng Quán Đôi.
Chúng tôi cố gắng di chuyển một cách bí mật, nhưng
tôi tin chắc, không thể nào qua được mắt người dân và nhất là bọn nằm vùng.
Bọn du kích địa phương biết chắc là
đêm nay, ở quanh khu vực đồn Bình Thủy sẽ không còn người lính nào. Có nghĩa là
bọn du kích đã nắm vững được tình hình trong đêm nay. Khi ra đến vị trí phục
kích nằm dọc theo Hương Lộ (con đường từ Đức Hòa chạy về Quận Hốc Môn).
Chúng tôi vừa ngồi nép mình vào một
bụi tre bên vệ đường.
Bảy Lì đem ra một bi-đông rượu đế,
rót một ly. Bảy vừa nói vừa đưa cho tôi.
-
Uống một ly cho ấm bụng ông thầy ơi!
Tôi nhìn Bảy nói:
-
Mày lúc nào cũng rượu.
Nói vậy nhưng tôi cũng cầm ly rượu
uống một hơi. Chất rượu hình như đã làm dòng máu trong tôi bừng cháy lên, tôi
và Bảy Lì cùng với Tư truyền tin, người mang máy cho tôi đêm nay, cả 3 chúng
tôi uống thêm vài ly rượu.
Tôi chợt nhớ đến Lan, người bạn gái
đã đến và thông báo cho tôi biết.
Đêm nay VC, sẽ cho người về bắt Lan đem ra vùng mật
khu. Họ bắt Lan phải từ bỏ vùng đất tự do. Mặc dù Lan không thích.
Tôi nghĩ tại sao mình lại hèn nhát,
không dám đứng ra ngăn chận hành động này. Tại sao những người lính Quốc Gia, lại
không dám đương đầu với Cộng Sản, để dành lại những người dân yêu chuộng tự do.
Tôi càng nghĩ đến điều này, thì
dòng máu nóng của một sĩ quan, dòng máu hào hùng của một Thiếu Sinh Quân trong
QLVNCH, càng sôi sục bởi ngọn lửa căm hờn.
Không cho phép tôi hèn nhát, tôi phải
làm một điều gì đó để ngăn chận hành động này của VC, không cho phép họ bước
chân đến vùng đất Tự Do, để dành dân lấn đất.
Tôi đứng dậy hỏi:
-
Ê hai đứa có chịu chơi không, cùng đi với
anh trở về nhà cô Lan.
Bảy Lì nói:
-
Sợ gì ai.
-
Tôi sẽ đi với ông
Cả Tư cũng lên tiếng.
Từ suy nghĩ này, tôi đã trình bày hết
mọi sự việc cho Trung Úy Phi.
Tôi không ngờ là Phi đã đồng ý với kế hoạch này của
tôi. Phi hứa với tôi là sẽ yểm trợ hết mình nếu có gì xẩy ra.
Kế hoạch của tôi rất táo bạo, tôi sẽ
về lại nhà Lan. Nghĩa là tôi phải lội bộ hơn 3 cây số, đi trong đêm nay để trở
lại gần đồn Bình Thủy.
Cùng đi với tôi chỉ có hai người
lính. Tư mang máy truyền tin và Bảy Lì, cả hai người lính này đều gan dạ và liều
lĩnh.
Tôi căn dặn cả hai đứa, mang thêm lựu
đạn và thêm băng đạn M.16.
Tôi cũng mang theo cây súng M16 ngoài cây súng Cold
45 lúc nào cũng mang bên hông
Tôi kiểm tra lại hệ thống truyền
tin, liên lạc với BCH và Trung đội trừ bị đang phòng thủ trong đồn.
Ánh trăng khuyết, đang tỏa sáng mập
mờ trong đêm. Ba người chúng tôi hiên ngang tiến bước, len lỏi trong các bụi
tre trong thôn. Tiếng chó sủa nối tiếp nhau vì bóng dáng chúng tôi xuất hiện
trong đêm.
Trời càng về đêm ánh trăng càng tỏa
sáng hơn, mặc dù đêm này không phải ngày trăng rằm, nhưng ánh sáng của nó cũng
đủ soi rọi một vùng thôn dã, đang chìm lắng trong giấc ngủ bình yên.
Tôi liên lạc trung đội trưởng ở
trong đồn, thông báo cho Chuẩn úy Hào biết, 3 người chúng tôi đang tiến gần vế
hướng đồn và gần nhà cô Lan.
Chuẩn úy Hào trả lời:
-
Anh yên tâm tụi này sẵn sàng yểm trợ khi
cần.
Tôi nhắc lại:
-
Anh biết vị trí nhà cô Lan.
Hào trả lời tôi:
-
Mọi người đều biết 5/5.
Bảy Lì vẫn lầm lũi, tay cầm khẩu
M16 đi trước, tôi và Tư theo sát phía sau.
Đôi lúc 3 người chúng tôi, phải chui qua những bụi
tre rậm rạp, mà tàn lá của nó đã che khuất cả ánh trăng, tạo thành một khoảng tối
không nhìn thấy gì. Tôi chợt nghĩ nếu ngay lúc này. VC tấn công thì chúng tôi
không thể nào trở tay kịp.
Chúng tôi vừa đến vuông tre trong
khu đất nhà Lan.
Tôi ra hiệu dừng lại, nói nhỏ với Bảy:
-
Em quan sát thật kỹ trước khi đột nhập
vào trong. Coi chừng tụi nó đã có mặt bên trong nhà.
Nhà của Lan, là một căn nhà mái ngói lâu đời. Nằm giữa
một vuông dất hơi cao hơn những thửa ruộng quanh nhà.
Chung quanh vuông đất, trồng cây
tre làm hàng rào, những bụi tre già này, đã mọc ở đây từ bao đời, nên gốc tre rất
lớn và rất rậm rạp. Nó tạo thành một bức tường thành bằng tre khà vững chắc.
Bên hông nhà là cổng ra vào, đi thẳng
ra là mấy thửa ruộng khô, Phía bên phải lối ra vào là một cây rơm lớn, và một chuồng trâu. Phía
sau nhà là chuồng heo và gà, vịt.
Tôi ra lệnh cho Bảy ra phía cổng, đứng
ở vị trí đó quan sát và canh gác.
Tôi nói với Tư truyền tin án ngữ
phía sau.
Còn tôi sẽ vào trong nhà.
Từ phía sau bước vào trong nhà, ánh
sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cũng đủ soi sáng cảnh vật trong phòng. Sự xuất hiện
bất ngờ của tôi, đã làm cho hai Mẹ con Lan thật sự hốt hoảng. Chỉ một thoáng qua Lan nhận ra tôi, nàng nở một
nụ cười và trong ánh mắt của Lan, tôi đã nhận ra một niềm vui bất ngờ.
Riêng bà Má của Lan, bà đang tròn
xoe đôi mắt nhìn tôi, với ánh mắt thật sự hốt hoảng và đầy lo sợ, bởi vì hơn ai
hết, bà đã biết chỉ một thoáng chốc nữa thôi. Chồng bà hay con trai của bà sẽ
trở về, gia đình bà sẽ tràn ngập niềm vui đoàn tụ, bà sẽ thật sự hạnh phúc.
Bà không ngờ rằng làm sao tôi có thể
biết được tin tức này, để rồi xuất hiện đúng vào giờ phút này. Bà cũng không thể
biết được, chính cô con gái của bà, đã thông báo cho tôi. Bà rất lo sợ, vì Bà
biết chắc rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi.
Một trận chiến sẽ nổ ra ngay tại
nơi đây, máu sẽ tuôn chảy trong căn nhà này, dòng máu đó không biết là của bên
nào. Có thể là của người Chồng hay con Trai của bà, hay dòng máu này là của
chính tôi.
Bà ngồi sững sờ trên bộ ván gỗ, bộ
ván có một bề dầy, gần cả gang tay, bộ ván này cũng chính là nắp căn hầm trú ẩn
của gia đình. Ở vùng này mỗi nhà dân đều có một căn hầm trú bom đạn. Bà ngồi
trên bộ ván, hai chân buông thòng xuống trước cửa hầm, như một tư thế sẵn sàng
chui xuống hầm bất cứ lúc nào.
Tôi lên tiếng chào Bà, với lời hỏi
thăm, coi như không có chuyện gì xẩy ra.
Bà không trả lời, vẫn im lặng nhìn
tôi, và nhìn chung quanh như quan sát xem, tôi đến đây với bao nhiêu người
lính. Tôi nghĩ chắc là bà rất ngạc nhiên, vì không thấy người lính nào ngoài
tôi, tôi mặc kệ Bà với những âu lo riêng tư.
Tôi và Lan bước ra trước cửa chính,
chúng tôi ngồi trên bực thềm nhà.
Lan khẽ nói:
-
Sao anh liều quá vậy.
Tôi mỉm cười trả lời:
-
Anh không sợ, vì dù sao cũng có em bên cạnh.
Mặt trăng đêm nay chỉ là vầng trăng
khuyết trên bầu trời, nhưng ánh trăng cũng đủ soi sáng cảnh vật.
Tôi nhìn Lan, nàng ngồi dựa sát bên
vai tôi.
Tôi nói với Lan:
-
Phải chi đừng có chiến tranh.
Những buổi tối trăng sáng như thế
này chắc là vui lắm. Những đôi tình nhân, có thể đi
dạo dưới ánh trăng thật đẹp, và thật nên thơ như đêm
nay.
Bất ngờ một tràng đạn M.16 nổ
vang, xé tan màn đêm yên tĩnh.
Tiếp theo là một loạt đạn AK.47. Tiếng
súng nổ vang trời.
Lan băng mình qua cửa ra vào, chui
ngay xuống hầm trú ẩn cùng với bà Mẹ.
Tôi vụt đứng lên, nấp bên cây cột nhà.
Tôi đưa khẩu M.16 về hướng bụi tre, bắn một tràng đạn,
yểm trợ cho Bảy.
Tôi nhìn thấy Bảy chạy về hướng tôi.
Bảy nói thật nhanh:
-
Tôi bị thương rồi.
Tôi nói:
- Đưa súng đây Bảy, chạy rút về đồn ngay.
Bảy phóng mình qua bụi tre, chạy trên thửa ruộng khô
phí sau, vế hướng đồn.
Tôi cầm hai khẩu M.16 kẹp vào hai bên hông, lia một
tràng đạn về phía cổng. Tôi vừa bắn vừa rút lui. Lúc đó Tư truyền tin cũng theo
sát bên tôi.
Cả hai chúng tôi cùng chui qua bụi
tre phóng ra phía thửa ruộng khô. Tôi và Tư chạy băng qua một thửa ruộng, phóng
người qua một bờ ruộng khá cao.
Tôi và Tư truyền tin nằm lại, tiếp
tục bắn yểm trợ cho Bảy rút về đồn.
Một loạt đạn AK.47 bắn về hướng
chúng tôi.
Tôi cầm ống nghe truyền tin, thông báo cho BCH Đại Đội
là tôi đang chạm địch.
Tôi ra lệnh cho khẩu súng cối 60
ly, trong đồn bắn cho tôi vài trái sáng.
Đồng thời ra lệnh cho khẩu Đại Liên trong đồn bắn một
tràng về phía bưng. Cánh dù hỏa châu của súng cối vừa bung ra, ánh sáng soi rõ
mọi cảnh vật.
Tôi không thấy bóng dáng một tên VC
nào.
Tôi bắn thêm vài tràng đạn về hướng
bụi tre nhà Lan.
Tôi và Tư truyền tin rút quân về đến
đồn.
Trong lúc vừa chạy, tôi vừa phải trả lời những câu hỏi
liên tiếp từ BCH Đại Đội và
BCH Chi Khu Đức Hòa. Tất cả đã vào chung một tần số
liên lạc với tôi.Tôi thông báo là không cần tăng viện, chúng tôi đã rút về đồn
an toàn.
Trung úy Phi có ý định xin lệnh Chi
Khu, cho rút quân vế yểm trợ, nhưng tôi trả lời là không cần, vì chúng tôi đã
vào trong đồn an toàn.
Do đó Đại Đội 3/338 vẫn nằm im tại
vị trí phục kích.
Tôi xin pháo binh Chi Khu, bắn yểm trợ cho tôi vài
trái hỏa châu.
Bảy Lì đã chạy về đồn trước tôi, Bảy
đang được Y Tá Hội băng bó vết thương.
Một viên đạn AK47 đã xuyên qua bàn chân của Bảy Lì,
vết thương đã được cầm máu
và băng bó.
Tôi hỏi Bảy:
-
Có sao không?
Bảy rít một hơi thuốc lá, vừa cười
vừa nói:
-
Không sao đâu ông thầy.
Sáng mai em đi bệnh viện là ổn
thôi. Tôi nghe Bảy nói như vậy thì cũng yên tâm.
Tôi trình bày qua tình hình địch, và đề nghị pháo
binh Chi Khu bắn chận, vài trái 105 ly, loại đạn nổ chụp về hướng bưng Mũi Lớn.
Vì tôi nghi ngờ là VC sẽ rút quân chạy vế hướng này.
Hai trái hỏa châu 105 ly của pháo
binh Chi Khu vừa thắp sáng trên khu vực đồn.
Chúng tôi có thể quan sát rất rõ tình hình địch
quân, tất cả rất im lìm không một động tĩnh nào. Tôi nghe từ hưởng bưng tiếng nổ
của pháo 105 ly vọng về.
Trời sáng dần, tiếng con gà trống
nuôi trong đồn lại gân cổ gay một tiếng rất hùng dũng. Xa xa từ những rặng tre già trong thôn, tiếng gà gáy vang lên nối
tiếp nhau.
Một làn sương mù, xuống thấp là đà
trên mặt ruộng khô, làn gió hơi lạnh thổi về, thời tiết vào những ngày cuối
năm, cũng khá lạnh vào buổi sáng sớm. Tôi khoác thêm một chiếc áo trận, châm lửa
đốt điếu thuốc RuBy quân tiếp vụ, một làn khói thơm phức lan tỏa vào không
gian.
Trung sĩ Hội, ý tá đại đội, lấy xe
Honda 67, chở Bảy Lì vô bệnh viện.
Sau này Bảy đã tường thuật lại đầu đuôi câu truyện
cho tôi nghe.
Bảy nói:
-
Em đứng núp trong bóng tối của bụi tre
ngay cổng ra vào.
Từ trong bóng tối em quan sát phía ngoài rất rõ,
trên tay là khẩu M16, choàng dây ngang vai, mũi súng luôn hướng vế trươc, và
ngón tay luôn đặt trên cò súng.
Không ngờ VC, nó di chuyển rất êm,
nó cũng men theo khoảng tối dọc theo bụi tre.
Bất ngờ VC xuất hiện ngay trước mặt, một phản ứng tự
nhiên là bóp cò súng.
Tên VC cũng bóp có súng, nhưng rất
may, là mũi súng của nó đang chúi xuống đất.
Cả hai làn đạn đều bắn ra cùng một lúc.
Tên VC này chắc đã lãnh đủ những
viên đạn M.16, gim vào người. Còn Bảy Lì, bị đạn AK47 gim vào chân.
Tôi đã hiểu tại sao, toán du kích
này khi đến nhà Lan, họ lại thiếu đi cảnh giác. Bởi vì họ đã tin vào tình hình
khu vực, chính họ cũng nhìn thấy tất cả đại đội của tôi đã đi xa.
Họ yên trí rằng, không còn một người lính nào trong
khu vực này.
Họ không thể hiểu được, chính tôi
là một yếu tố bất ngờ, đã đem họ đến một tình huống
bất lợi. Họ đã không thực hiện đươc ý định ban đầu,
mà còn nếm thêm mùi thất bại.
Theo tin tình báo của Chi Khu, đơn
vị du kích này đã bị tổn thất nặng. Một chết tại chỗ đươc đồng bọn mang đi, một
chết trên đường rút lui và một số bị thương, có thể do đạn pháo binh của Chi
Khu bắn nổ chụp.
Sau này tôi còn biết thêm chi tiết
nữa: Căn nhà ngói cổ của gia đình Lan, đã không bị thiệt hại nào, do cả hai
phía tham chiến đều không muốn gây ra.
Vài tháng sau đó BCH/Tiểu Đoàn
thuyên chuyển tôi về đóng quân tại Chi Khu Đức Huệ. Trong thời gian này, tôi nhận
được tin Lan đã theo gia đình vào mật khu.
Hiệp Định Paris đã được ký kết vào
tháng 1 năm 1973. Mấy tháng đầu tình hình chiến sự có vẻ lắng động đôi chút.
Nhưng sau đó bản Hiếp Định này gần như đã bị xé bỏ, tình hình chiến sự càng
ngày càng gay go hơn.
Tôi đã được BCH Tiểu Đoàn 338/ ĐPQ.
Thuyên chuyển về làm Đại Đội trưởng ĐĐ.4/338. Bảo vệ vòng đai cho Chi Khu Đức
Huệ. ĐĐ.4 do tôi chỉ huy, đóng quân tại một tiền đồn hẻo lánh, nằm về phía bên
kia sông Vàm Cỏ Đông, một vùng đất hoang vu không một bóng người.
Hết.
Hậu Nghĩa
Tôi
viết câu chuyện ngắn này, như một kỷ niệm khó quên trong đời lính.
Một người lính Địa Phương Quân. Không phải là những
đơn vị hào hùng trong QLVNCH. Tuy nhiên người lính ĐPQ, luôn gắn bó rất chân
tình với người dân.
Trăm năm trong cõi vô thường.
Ta ngồi viết lại đoạn trường vô
thanh.
Cho người chiến sĩ vô danh
Bước vào huyền thoại, hóa thành vĩ
nhân.
Vòng quay Nhật, Nguyệt xoay vần.
Ta đem viết lại, bao thân phận người.
Tôi xin mượn ý tưởng của bài
thơ này, để nói lên ý nghĩa vô thường của đời sống. Đời nhà binh
sớm họp tối tan. Chiến tranh thật là vô nghĩa, chỉ vì những chủ
thuyết lệch lạc, vô thần mà Cộng Sản đã đem đến, gây chia rẽ, huynh
đệ tương tàn, cho dân tộc Việt Nam.
Có biết bao chiến sĩ vô danh,
họ đã phải hy sinh, để rồi họ bị quên lãng, không để lại một âm vang
nào trong chiến sử.
Đây chính là đoạn trường vô
thanh, không ngôn từ diễn đạt. Tôi muốn cùng các bạn, chúng ta hãy
viết ra những cảm nghĩ của mình, để đem người chiến sĩ vô danh, vào
trong huyền thoại của lịch sử.
Cho những thế hệ mai sau, còn
tìm lại niềm tự hào của người lính QLVNCH.
CTSQ.
Lê Tuấn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét