Đội Đâp Đá Trại 6 Nghệ Tĩnh
Đầu năm 1977 sau cái Tết tại trại An Dưỡng, anh em
tù thường đồn thổi những tin tức, đại loại như tin sắp được thả một
số tù, hay tình hình thời sự ngoài đời, vui thì ít mà buồn thì nhiều, trong các loại tin này có một tin rất quan
trọng đó là, sắp có một đợt chuyển trại ra miền bắc, nguồn tin này
mỗi lúc một đồn thổi nhiều hơn, và anh em tù cũng tin chắc, sẽ chuyển trại một số thành phần như (An Ninh,
Tình Báo) hay (Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý Chiến) tóm lại là những
thành phần VC liệt vào loại “ác ôn”, sẽ bị lưu đầy biệt xứ, không hiểu sao tôi vẫn có
một linh cảm,
và ngay trong giấc mơ, tôi đã nhìn thấy chính tôi bị đi lưu
đầy.
Mùa hè năm 1977 toàn trại được lệnh tập trung tại
hội trường, một số đơn vị bộ đội từ nơi khác đến rất đông, và một đoàn xe Molotova bít bùng đậu dọc theo
đường. Toán
bộ anh em tù tập trung trong sân trại. Một số đông bộ đội cầm sung AK 47 canh
gác. Cán bộ trại cầm
một danh sách dài, bắt đầu đọc
tên:
-
Các
anh nào có tên tập trung về phía bên trái, tay
thượng uý bộ đội, với chất giọng
miền bắc, đọc lớn từng tên người tù, và trong danh sách đó có tên tôi.
Tay thượng uý nhấn mạnh thêm, các anh vừa đọc tên, sẽ được cán bộ hướng dẫn về láng trại, đem hết tư trang rồi tập trung tại nơi đây.
Anh em chúng tôi trở về láng của mình,
thâu gom tất cả tư trang, dĩ nhiên cái lon Guigoz là hành trang cần
thiết nhất, của người tù cải tạo, trong lần di chuyển này
anh em tù còn mang theo một số vật dụng tự làm ra,
như cà men, ca
cóng lỉnh kỉnh, và
một số áo gió, làm từ bao cát, hành trang trờ nên cồng kềnh
hơn một chút.
Buổi chiều hôm ấy, anh em tù được nghe cán ngố nói khoác lác, về thiên đường xã hội chủ nghĩa. Các anh sẽ
được nhìn thấy xã hội ưu việt, không bao giờ trộm cắp, người dân ban
đêm không cần đóng cửa, mọi thứ để ngoài đường không bị mất, họ nói
luyên thuyên nói về những điều không tưởng, nói về một thiên
đường mù, họ nói về những
gì mà bác và đảng đã lừa dối họ, đã bịt mắt họ để trở nên những
con vật trung tín.
Tay
bộ đội cấp bậc Thượng Tá, răng hô, đen nhớp nhúa, má hóp (vì kéo thuốc lào liên
tục), trên đầu đội nón cối, lắc qua lắc lại, nói luyên thuyên, thụt cả lưỡi, cuối cùng hắn tuyên bố:
-
Các
anh sẽ đến một nơi (khỉ ho cò gáy) và sống ở đấy cho đến khi xây
dựng thành
một ngôi làng với tường vàng ngói đỏ.
Điều này hàm ý chúng tôi đã bị lưu đầy biệt xứ.
Anh em tù không biết rõ là VC sẽ đưa mình đi về
đâu, tất cả chỉ đoán mò theo sự suy đoán. Chúng tôi tập trung tại đây
cho đến khoảng 7 giờ tối, từng toán nhỏ lần lượt lên xe bít bùng, Việt
Cộng luôn luôn di chuyển vào ban
đêm, họ làm việc như loài ma cà rồng, xuất hiện vào ban
đêm, vì sợ ánh mặt trời, sợ cái nhìn của dư luận nước ngoài.
Chuyến xe bắt đầu chuyển bánh chạy ra khỏi trại,
trên đường phố Biên Hoà, những ánh đèn đường leo loét, lập loè sáng qua
kẽ hở của tấm bạt, đang phập phồng theo sức gió, tôi nhìn qua kẽ hở, thấy những ngọn đèn dầu thắp sáng, trong những căn nhà bên vệ đường, thành phố đang
ngủ yên trong giấc ngủ ma quái, đầy mộng mị về một tương lai đen tối đang chờ
đón.
Chắc hẳn trong những căn nhà tăm tối đó, cũng sẽ
có những tâm hồn với giấc mơ thật đẹp về một vùng đất tư do, bên phương trời xa lạ nào đó, vì đa số người dân
đang tính toán một con đường vượt biên trong thời điểm này.
Đoàn xe chạy vào khu bến cảng dừng lại, tấm
bạt che bít bùng được mở ra, anh em tù bước xuống, chúng tôi nhận ra đây là Tân
Cảng, nơi đây vẫn còn lại những container, còn in những hàng chữ thật lớn
(Every Green) hay hàng chữ USA.
Nhìn
thấy hình ảnh này, như gợi nhớ lại thời gian trước 1975, làm trái tìm người tù
thắt đau, và một nỗi buồn vong quốc chợt đến, chúng tôi đang bị lưu đầy trên
chính quê hương của mình.
Tất
cả tù nhân xuống xe, đứng xếp hàng thành từng nhóm nhỏ, dưới ánh đèn đêm yếu ớt
trên bến tầu, đủ soi sáng hình dáng một con tầu, đang cặp sát bến, trong bóng tối
tôi không biết con tầu này tên gì, có nhiều anh cho biết đây là con tầu Sông
Hương, nếu con tầu này mang tên Vũng Tầu, thì chính là con tầu Việt Nam Thương
Tín.
Con
tấu Việt Nam Thương Tín, một con tầu định mệnh, từ đảo (Guam) vùng đất tự do,
mà nó vừa dừng lại, được Hải Quân Mỹ, trùng tu sửa chữa, để chuyên chở những
người Việt Nam tị nạn, đã đặt chân trên vùng đất tự do, nhưng chưa thấu hiểu hết
về cộng sản, nghe theo lời dụ dỗ, tuyên truyền của cộng sản, đòi quay trở về
quê hương.
Chính
phủ Mỹ cho họ tự quyết định, và chuyển sốn người này về đảo Guam. Ngày 16 tháng
10 năm 1975. Tầu Việt Nam Thương Tín, rời khỏi đảo Guam để trở về Việt nam với
1,546 người tự nguyện hồi hương, trong số những người này có nhạc sĩ Trường Sa
và Chỉ huy con tầu là Trung Tá Trần Đình Trụ. Sau này tôi có gặp hai người này
tại trại 3 Tân Kỳ, khi tôi bị chuyển từ trại 6 đến Trại 3 Tân Kỳ.Nghệ Tĩnh
Ngày
27 tháng 10, 1975 con tầu cặp bến Vũng tầu nhưng bị ngăn cấm, phải chạy ra Nha
Trang, tất cả số người trên tầu bị bắt giam tại trai tù Đồng Tre tỉnh Phú
Khánh.
Những
người xin trở lại quê hương trên con tầu VN thương Tín, để mãi mãi phải hối tiếc.
tất cả đã vào trại giam để thanh lọc, riêng những cấp sĩ quan hay chính quyền đều bị tù đầy lâu dài. Có những người đã phải
bỏ thây nơi trại tập trung, và những người bị tù đầy trên 10 năm. Ngày hôm nay
con tầu định mệnh lại trở thành một chứng nhân, chuyên chở những tù binh chiến
tranh, những Quân Dân Cán Chính của VNCH, đi lưu đầy ngay trên quê hương Việt
Nam.
Trong
bóng tối mập mờ tại khu vực bến cảng, tôi nhìn thấy dường như là một đoàn tầu
chứ không phải một con tầu, sau này tôi mới biết, ngày hôm đó, có một đoàn tầu
bao gồm 5 chiếc tầu, và một con tầu hộ tống (không chở tù nhân). Mỗi con tầu có
hai khoang chứa hàng, nằm phía trước và sau, mỗi khoang chứa khoảng 425 người
tù cải tạo
Tất cả xuống
xe rồi sếp hàng lần lượt theo từng nhóm nhỏ, đi xuống tầu, lối đi xuống tầu là một tấm ván bắc ngang qua, bề ngang miếng ván khá nhỏ, miếng váng cứ nhún lên, nhún xuống, theo sức nặng bước chân đi, do đó cũng hơi khó đi, vì
người tù còn mang theo ba lô túi sách lỉnh kỉnh, tội nhất là các vị lớn tuổi rất
khó bước.
Tôi nghe đồn những chuyến đi trước đã có một sĩ quan cấp
tá lớn
tuổi, ông ngã xuống nước và mất
mạng,
dưới dòng sông này.
Những
tù nhân làn lượt bước xuống hầm tầu, co hai người đi rất chậm vì quá yếu. người
thứ nhất là Hà Minh Hùng, bị vết thương “thủng bụng” do bị bắn khi vượt ngục, vết
thương còn rỉ máu, chưa kịp lành.
Hà
Minh Hùng, tôi đã có dịp viết về anh trong câu chuyện “Người tù cải tạo và cái
lon guigoz”. Người thứ hai là Hứa Sâm, bị cùm chân, vì anh chống đối tới cùng,
nhất định không chịu đi lao động, dù cho có bị bỏ đói, khi xuống tới hầm. Hứa
Sâm mới được tháo cái cùm ra khỏi chân của anh.
Anh em tù bước lên tầu, cứ tưởng rằng sẽ được cho ngồi trên bong tầu hứng gió
mát, nào ngờ tất cả bị nhốt dưới một cái hầm thật sâu (loại hầm để chứa hàng),
không gian duy nhất để nhìn trời, và cũng để lấy thêm dưỡng khí, đó là cửa hầm, một khoảng trống nhỏ của nắp hầm.
Anh em tù chúng tôi, bị nhốt như những con khỉ đột trong sở thú, nước uống và
thức ăn được dòng dây xuống, cứt đái được cho vào thùng rồi kéo ngược lên, cứ
thế diễn tiến trong hai ngày ba đêm, anh em chúng tôi ở dưới hầm, với sức nóng của mùa hè, và sức nóng của hàng trăm con người, một bầu không khí rất ngột ngạt, và nóng bức như trong một cái lò nướng bánh mì, thật là
khủng khiếp, cũng may VC chưa đủ ác, đóng nắp hầm lại, nếu nắp hầm đóng lại chúng tôi sẽ chết
ngạt, như trong các lò thiêu của Đức Quốc Xã, đã giết hại người Do Thái. Con tầu định mệnh đã đưa anh
em tù lưu đầy biệt xứ trên vùng Việt Bắc Hoàng Liên Sơn,
Người
bạn cùng trường Thiếu Sinh Quân với tôi, là Thiếu Úy Lâm Ngọc Chiêu, cựu Liên Tóan Trưởng,
Nha Kỹ Thuật
-
Chiêu nói với tôi.
-
Buồn quá Tuấn ơi! Hôm nay cũng chính là
ngày giỗ của em trai tôi.
Ngày
23 tháng 5 năm 1977. Một sự trùng hợp lạ lùng, do đó chúng tôi nhớ rất chính
xác về cái ngày lịch sử, ngày anh em chúng tôi, bị lưu đầy ra miền bắc xã hội
chủ nghĩa.
Bước
xuống hầm tầu, tôi quan sát một vòng căn hầm chở hàng, không rộng lắm, nhưng họ
đã lùa 425 người tù cải tạo xuống dưới cái hầm, nóng như lò bánh mì, vì hầm tầu
nằm bên cạnh khoang máy tầu, thật là khủng khiếp, không thể diễn tả được.
Sát cạnh vách hầm ở phía giữa, có một cầu
tiêu, làm bằng nan gỗ bọc chiếu cói, bàn cầu là một cái bàn, có khoét lỗ tròn
trên mặt bàn, và một cái sô đặt phía dưới. Chúng tôi phải trải chiếu trên sàn hầm
bằng sắt, để nằm, tuy nhiên vì hầm tàu quá nhỏ so với con số quá đông người,
nên mỗi người chỉ vừa một chỗ để ngồi dựa trên đồ đạc. Tôi tìm được một góc hầm,
có hai đầu móc sắt nhô ra, đủ căng một cái võng có thể ngồi và dựa lưng trên
võng, tránh được sự nhớp nháp ướt át dơ bẩn, do nước thải từ thùng chứa phân,
và nước tiểu chảy ra lênh láng trên sàn.
Trên
bốn trăm người mà chỉ có một cái sô nhỏ, không thể nào đủ để đựng những thứ
tiêu hoá. Thức ăn và nước uống được thòng xuống, từ trên sàn tàu bằng một sợi
dây qua cái lỗ, cửa ngõ duy nhất thoát khỏi căn hầm.
Tôi
chợt nghĩ về những lò hơi ngạt của Đức Quốc Xã, dùng để giết người Do Thái,
trong thế chiến thứ 2. Nếu trong lúc này nắp hầm bị đóng chặt, chúng tôi sẽ chết
ngộp từ từ. Giống như người Do Thái bị chết trong hầm hơi ngạt của Đức Quốc Xã.
Họ
cho chúng tôi ăn mì gói, thức ăn được thòng dây đưa xuống hầm. Chúng tôi trông
giống những con khỉ đột, bị nhốt trong hầm sở thú, và được những người nuôi thú
cho ăn từ trên cao.
Con
tầu chở tù, chạy dọc theo bờ biển Việt Nam. Những luồn gió mát của biển khơi,
thỉnh thoảng lùa xuống hầm, chúng tôi cảm nhận được mùi của biển, mặc dù trong
hầm vẫn nóng như lò lửa, không khí vẫn dậm mùi hôi thối, chúng tôi nhìn theo
ánh mặt trời, khi mặt trời mọc lúc bình minh, và mặt trời lặn lúc hoàng hôn,
chiếu xuyên qua cửa hầm, để nhận định con tầu đang đi về hướng bắc, không như
tin đồn đi về Phú Quốc, nơi giam cầm các cán binh Việt Cộng trước kia.
Ngày
25 tháng 5 năm 1977. Cuối cùng con tầu đã cặp bến Quân Cảng Hải Dương. Một bến
cảng quân đội nằm trên bờ sông Thái Bình, từ cửa biển Đảo Cát Bà, nơi cửa ngõ
này có 3 con sông nổi tiếng đó là Sông Cả, sông Bạch Đằng Giang và sông Thái
Binh. Con tầu đi vào con sông rất lớn đó là sông Thái Bình, chạy về bến cảng Hải
Dương. Theo như một số anh em tù cho biết đó là bến Bính, Hải Phòng. Nhưng bạn
tôi là Lâm Ngọc Chiêu, thì quả quyết đó là bến quân cảng Hải Dương. Tôi thấy
chi tiết này cũng có lý, vì cả hai bến đều có vị trí gần nhau, hơn nữa từ bến cảng,
chúng tôi đi bộ một đoạn thì ra ngay đường tầu hỏa.
Chờ
cho đến khi trời chạng vạng tối, họ cho chúng tôi leo lên boong tầu, một làn
gió mát của dòng sông thổi ùa về, chúng tôi vươn vai, hít mạnh luồn không khí
mát lạnh, từ dòng sông thổi về, như tống khứ mùi hắc ám của hầm tầu.
Chúng
tôi định thần nhìn về hướng bến cảng, lố nhố một số đơn vị bộ đội, chen lẫn màu
áo vàng công an, đang đứng giàn chào, chờ đợi chúng tôi trên bến.
Mọi
hoạt động chuyển tù đều diễn ra vào ban đêm, vì họ không muốn công khai để người
dân nhìn thấy. Chờ đến khi trời tối hẳn, chúng tôi được lệnh xếp hàng một, lần
lượt đi lên bờ, mỗi người chúng tôi đều mang theo hành lý lỉnh kỉnh, ca cóng,
những túi đeo vai, hay sách tay, may từ bao cát, kể cả áo khoác mà chúng tôi
đang mặc, cũng làm từ bao cát, trông thật
thảm hại, chúng tôi đã trở thành những người chiến sĩ vô danh, hình như âm vang
của ca khúc (Chiến Sĩ Vô danh) đang vang vọng trong tâm trí tôi.
Tôi đã đổi lời bài hát cho phù hợp với hoàn cảnh
hiện tại, vừa đi vừa lẩm nhẩm hát thật khẽ, vậy mà vài người bạn đi cạnh tôi đã
nghe.
-Người
bạn đi bên cạnh nói với tôi
-Ê
Tuấn, mày đổi lời bài Chiến sĩ vô danh, nghe cũng hay lắm, rất hợp với tụi
mình.
“Mờ
trong bóng chiều
Đoàn
tù binh thấp thoáng (Một đoàn quân thấp
thoáng)
Trí
cao hùng (Núi cây rừng)
Lắng
tiếng nghe hình dáng
Của
người anh hùng
Lạnh
lùng trên bến đồn. (Lạnh lùng theo trống
đồn)
Trên
vai tù vương (Trên khu đồi nương)
Đi
trong chiều buông (Im trong chiều buông)”
Chúng
tôi lầm lũi bước đi giữa hai hàng bộ đội cầm súng AK47. Có cả đoàn quân khuyển
(chó becgie Đức) loài chó trung thành này, gầm gừ chồm lên khi chúng tôi đi
qua, vậy mà cũng có anh bạn nói đùa:
-
Tôi
quay lại nhìn, nhận ra đó là Chương Dỏm, Anh Chương luôn phà trò.
-
Anh Chương nói khá to
-
Lũ chó này, trông quen mặt quá mà cũng sủa
om sòm
Câu
nói đùa này cũng mang đầy ý nghĩa và mỉa mai, như người lính bộ đội người Việt,
“trông quen mặt người Việt”, đang hăm he khẩu súng AK47 chĩa thẳng về phía
chúng tôi, những tù binh người Việt, tay không một tấc sắt.
Chúng
tôi đi bộ đến nhà ga Hải Dương, tại nơi đây đã có một đoàn tầu hỏa, đang nằm chờ
sẵn. Những toa tầu bằng sắt mầu xám sịt, dưới ánh đèn vàng của sân ga, trông
như một con quái vật khổng lồ sẽ nuốt chửng chúng tôi vào trong bụng.
Chúng
tôi bị phân ra thành từng toán nhỏ, khoảng 100 người một nhóm, đứng trước một
toa tầu, sau khi cả đoàn tù, được phân đều ra mỗi toa, cánh cửa sắt hé mở ra,
hai người bộ đội cầm AK47 chờ sẵn, chúng tôi lần lượt từng người bước lên toa tầu,
tay bộ đội ra lệnh cho chúng tôi.
-
Hãy để hành lý ở giữa, các anh chia làm
hai, mỗi bên 50 người.
Chúng
tôi chia làm hai, ngồi chật cứng hai bên toa tầu, hành lý của chúng tôi, đã trở
thành một bức tường thấp, ngăn đôi ranh giới giữa hai người lính gác. Như dòng
sông Bến Hải đã ngăn chia đôi bờ Tự Do và Cộng sản.
Toa
tầu chúng tôi bước lên, là toa chở than, bụi than bám đầy, chúng tôi ngồi dựa
vào thành tầu, quần áo mặt mũi lấm đen. Tuy nhiên vẫn còn đỡ hơn, những người bạn
tù khác, bị nhốt trong toa chở trâu bò, hôi thúi, vì cứt đái vẫn còn nhớp nháp
chưa chùi rửa sạch. Bị nhốt chật cứng trong một toa chở hàng, không có cửa sổ,
cánh cửa toa tầu duy nhất cung cấp dưỡng khì, là của lên xuống do hai bộ đội cầm
xúng AK47 ngồi canh gác, cánh cũa này mở hé ra, cho không khí lùa vào. Tôi nghe
kể lại trong những chuyến chở tù trước, đã có một vài người tù lớn tuổi bị chết
ngạt trong toa tầu.
Con
tầu bắt đầu chuyển bánh, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, tốc độ tăng dần lên, chúng
tôi nhìn qua kẽ hở, nhìn theo những dấu hiệu chỉ đường, chúng tôi nhận ra, con
tầu chạy về hướng Hà Nội, thủ đô của quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tên gọi
của miền bắc VN vào thời gian chưa đổi tên), một thành phố về đêm, leo loét ánh
đèn vàng, màu sắc thật ảm đạm, im lìm đang ngủ say trong giấc mơ thiên đường về
chủ nghĩa xã hội.
Nếu
đem so sánh giữa Hà Nội và Sài Gòn vào thời gian 1975, thi thật là một trời một
vực, một bên là phồn hoa đô hội (Hòn ngọc viễn đông), một bên ảm đạm thê lương,
như cụ rùa Hồ Gươm, rúc đầu xuống đáy hồ, ẩn mình trong lớp bùn đen, để mơ về một
thiên đường mù, một chủ nghĩa hoang tưởng. Chủ Nghĩa Xã Hội.
Hèn
gì khi quân bộ đội tiến vào giải phóng Sài Gòn, họ đều ngơ ngác, như người rừng
vào thành phố, và họ đã tận tình vơ vét của cải vật chất, những thứ mà họ vẫn
lên án “của bọn tư bản dẫy chết”, để đem về khoe khoan chiến công hiển hách.
Họ
thường xuyên tuyên truyền láo khoét. “Chủ nghĩa Tư Bản đang dãy chết” đã bị
chôn vùi, dưới sức mạnh của “Ba dòng thác Cách Mạng” đang mạnh mẽ hơn lúc nào hết.
Nhưng không bao lâu sau, ba dòng thác cách mạng này đã tan theo mây khói, khi
Liên Xô “Soviet Union” cái nôi sinh ra chủ nghĩa cộng sản đã tan rã. Cho đến hiện
tại chỉ còn Trung Cộng, Cu Ba, Bắc Hàn và Việt Nam, còn ôm ấp mộng tưởng về chủ
nghĩa xã hội. Tôi chợt nhớ đến câu nói đùa, nhưng rất có ý nghĩa:
-
“Mọi con đường trên địa cầu, đều đông
đúc. Chỉ duy nhất co đường mang tên (Chủ nghĩa xã hội) thì vắng tanh.”
Có một điều vô cùng nghịch lý trong chiến tranh VN đó
là, khi quân cộng sản tiến quân đến đầu,
thì người dân luôn bỏ chạy theo quân đội VNCH. Sau khi cộng sản tiến chiếm toàn
lãnh thổ miền nam VN. Đáng lẽ mọi người dân phải hân hoan đón mừng vì được giải
phóng, nhưng không, họ đã âm thầm lặng lẽ bỏ trốn, bằng một cuộc vượt biên, vĩ
đại nhất trong lịch sử Việt Nam.Toàn dân miền nam VN vẫn chạy về bên thua cuộc, và một điều nghịch lý hơn nữa đó là, chính những người thắng cuộc cũng bỏ chay về bên
thua cuộc, họ di dân qua Mỹ (đế quốc xâm lược,
tư bản dẫy chết) họ di dân qua
Canada qua Úc, hay
qua các nước Tư bản (dẫy chết), có nghĩa rằng bên thắng cuộc đã từ bỏ thiên
đường cộng sản.
Sau
này có dịp đọc (BênThắng Cuôc, của Huy Đức). Nhiều người đã thận trọng nhìn lại
lịch sử, họ đã giật mình, với cảm giác chính Bên Thua Cuộc đã giải phóng Bên Thắng
Cuộc.
Những
hòn đá ném mạnh vào toa tầu, làm chúng tôi chợt tỉnh, vì vừa chợp mắt sau cơn
buồn ngủ, do hai ngày trong hầm tầu, lênh đênh trên biển. Chúng tôi hé mắt nhìn
qua khe hở. Nhận thấy trên đường tầu, có một nhóm người đang cầm đá ném vào toa
chở anh em tù, chúng tôi còn nghe loáng thoáng những câu chửi thề bậy bạ, chửi
với theo.
-
Địt mẹ mấy thằng ngụy quân
Những
câu chửi rất mất dậy, đã làm nổi bật bản chất thô tục của người dân xã hội chủ
nghĩa, họ đã bị đầu độc bởi sự dối trá, đầy lòng thù hận, tánh bản thiện của
con người, đã bị đảng xóa mất, thay vào đó là những dối trá và gian ác.
Tôi
chợt nhớ đến sự phản kháng của những người cầm bút, dẫn đến một vụ án gọi là Nhân
Văn Giai Phẩm.
Nhà
thơ Trần Dần, (một đảng viên, đã sớm từ bỏ dảng cộng sản), Những bài thơ của
ông đã viết và đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm.
“Những ngày
ấy bao nhiêu thương xót
Tôi
bước đi không thấy phố không thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.”
Hay trong bài thơ. Nhật định Thắng
của ông cũng để lại những vết chém, nhói đau trong tim những con người chân
chính.
“Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ Quốc, ngày hôm nay rớm máu”
Con
tầu dừng lại giữa đường ray, vì nơi đây không phải nhà ga, mà chỉ là nơi dừng tạm
của con tầu có nhiệm vụ chở tù. Nơi đây chính là địa điểm của bến phà Ô Lâu,
thuộc tỉnh Yên Bái. (sau này tôi đã “search online”,
họ đổi tên là bến phà Âu Lâu)
Bến phà Ô Lâu là nơi ghi dấu một thời chiến tranh. Năm 1953 bến
đã trở thành điểm trọng yếu, bến Ô Lâu còn là bến quan trọng, là cửa ngõ vận
chuyển từ Việt Bắc sang Tây Bắc. Ô Lâu là bến đò mà người dân ven sông Hồng,
buôn bán qua lại, nối liền giữa hai vùng Việt Bắc và Tây Bắc, đã trở thành nhân
chứng của bao sự kiện lịch sử.
Hôm nay bến Ô Lâu lại chứng kiến thêm một sự kiện lịch sử, là
nơi chuyển tiếp vài chục ngàn tù binh Chế độ cũ VNCH. Vượt qua sông Hồng để đi
vào vùng Hoàng Liên Sơn, nơi có những trại tù nằm sâu trong rừng núi đang chờ đợi.
Để sau này có hàng ngàn chiến sĩ VNCH đã bỏ xác nơi rừng núi Hoàng Liên Sơn
Chúng tôi được lệnh xuống tầu, lần lượt từng nhóm đi xuống con dốc
khá sâu, lối đi xuống dốc, là con đường đất lồi lõm, sình lầy, theo dấu vết của
những bánh xe Molotova để lại. Hai bên con dốc là nhà dân, nằm trên con đê, do
đó khá cao hơn mặt đường, khi chúng tôi đến bên bờ sông nơi có bến phà, anh em
chúng tôi ngồi chờ đợi, từng chuyến phà đến.
Chúng tôi đứng dựa lưng vào vách đất của con đê, anh bạn đứng cạnh
tôi, chắc đang nhớ nhà, anh lấy trong túi tấm ảnh gia đình của mình ra xem. Một
đám trẻ con đứng phía trên con đê, chúng đang nhốn nháo đứng xem, bỗng dưng tôi
nghe thấy tiếng nói của mỗt bé gái nói thật to
-
Ê tụi mày ơi! Chúng nó
cũng có gia đình vợ con.
Tiếng nói vừa đứt, một nhóm đông trẻ con chạy ùa lại xem, anh bạn
đang xem hình, vội ngước lên nhìn, những ánh mắt ngạc nhiên của đám trẻ, và anh
nói.
-
Thế các cháu nghĩ các chú
đây là gì?
Cũng chính tiếng nói của bé gái vừa la lớn, cháu bé trả lời
-
Chúng mày là lính ngụy, ăn
gan uống máu người, làm gì có gia đình.
Anh em chúng tôi nghe câu nói thốt lên từ miệng cháu gái, mà
nhói đau trong tim, tất cả đều lắc đầu. Thật ngao ngán cho một chế độ, luôn vỗ
ngực tự hào về chủ nghĩa xã hội, có văn hóa, một chủ nghĩa đỉnh cao của xã hội
loài người, là thiên đường của nền văn minh tiến bộ nhất nhân loại.
Họ đã đầu độc cả tâm hồn ngây thơ, trong sáng của trẻ thơ, đã dậy
cho người dân chỉ biết hận thù, chỉ biết giết người. Đúng là một xã hội của
loài khỉ, mới tiến hóa lên làm người, một xã hội cùng hung cực ác.
Không lạ gì, khi nền giáo dục, và văn hóa cộng sản đã ca tụng một
tay bồi bút, như nhà thơ Tố Hữu, một tay đồ tể giết người không gớm tay, qua
bài thơ “Giết, giết nữa” Bài thơ này đã được đưa vào sách giáo khoa, dậy cho
các học sinh tiểu học.
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút
nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau
xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước
chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ
Sít-ta-lin bất diệt”
Hay bài thơ vong ơn bội
nghĩa, quên hết công Cha nghĩa Mẹ. Để tôn thờ những tên sát nhân, giết ngươi vĩ
đại nhất thế giới. Tố Hữu đã viết (Đời đời nhớ ông)
“Yêu biết mấy nghe con
tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi
Stalin!
….
Thương cha, thương mẹ,
thương chồng
Thương mình thương một,
thương ông thương mười”
Nền
giáo dục của cộng sản là như thế, họ đã dạy cho thế hệ trẻ, quên hết công ơn
cha, mẹ, quên hết truyền thống tốt đẹp về Văn Hóa VN. Họ muồn cả một thế hệ nối
tiếp, phải tuyệt đối trung thành với đảng cộng sản, xem những lãnh tụ cộng sản
là thần thánh.
Đáng
lẽ tâm hồn của những trẻ thơ này, phải hồn nhiên trong sáng, nhưng thật đáng tiếc
vì chúng đã bị nhuộm đỏ, trong nền giáo dục vô cùng tồi tệ, của chủ thuyết vô
thần cộng sản.
Tiếng
máy nổ của con phà từ bên kia sông mới cặp bến, những an hem đứng trước lần lượt
lên phà, và 2 xe Molotova cũng chạy lên, vì con phà quá nhỏ, không đủ sức chứa
thêm xe và người, nên phải chuyên chở lần lượt từng chuyến. Nhóm chúng tôi đến
sau nên tiếp tục ngồi chờ.
Tôi
nhìn về dòng sông Hồng, một buổi chiều đã dịu nắng, cái nóng gay gắt của mùa hè
như giảm bớt sức nóng, một luồn gió mát từ bến sông thổi lướt qua, những táng
lá, những ngọn tre đong đưa, một không gian thật thanh bình của vùng quê Yên
Bái, nhìn dòng sông cuộn chảy mang theo lớp phù sa màu đỏ của núi rừng Việt Bắc.
Sông Hồng, tên chữ Hán là Hồng Hà, là
một con sông lớn chảy qua vùng đồng bằng, bắc bộ Việt Nam. Sông bắt nguồn từ
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776m trên dãy Ngụy Sơn. Đoạn chảy trên lãnh
thổ Trung Quốc có tên là Nguyên Giang. Sông vào lãnh thổ Việt Nam, tại Hà
Khẩu thuộc tỉnh Lào Cai, đoạn từ Lào Cai đến ngã ba Bạch Hạc thuộc thành
phố Việt Trì gọi là sông Thao, người Thái gọi là Nậm Tao. Đoạn
qua Hà Nội sông uốn cong như vành tai nên gọi là Nhĩ Hà, phát âm chữ nhĩ
hà, không được thuận lắm, nên người dân đọc thành âm Nhị Hà.
Hàng năm đến tháng
bảy, mùa mưa bão lại về, nước sông Hồng lên cao, có năm lên đến tận ngọn tre, sóng
nước mấp mí mặt đê. Nước sông có màu đỏ, do chứa nhiều phù sa, từ những
vùng đất đỏ trên rừng núi Hoàng Liên Sơn đổ xuống, vì thế dòng sông có một tên
chung là sông Hồng.
Chúng tôi những
sĩ quan VNCH, đã trở thành những người (tù binh chiến tranh), đến Yên Bái vào ngày
cuối tháng 5 năm 1977.
Theo dòng chảy của
lịch sử, như gợi nhớ lại, vào ngày 17/6/1930, 13 chiến sỹ Việt Nam Quốc Dân Đảng,
trong đó có người anh hùng Nguyễn Thái Học, khi đó mới 28 tuổi, bị đưa từ nhà
tù Hỏa Lò, lên Yên Bái để thực thi bản án tử hình. Cuộc Khởi nghĩa Yên Bái đã để
lại một điểm son trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam.
Anh em chúng tôi
những người lính Quân Lực VNCH, cũng đến Yên Bái, để trở thành người tù chung
thân biệt xứ, một bản án không thành văn, nhưng đã được mặc định là như thế, do
chính cộng sản áp đặt. Họ không đem chúng tôi lên đoạn đầu đài, như người Pháp
đã đem 13 chiến sĩ Quôc Dân Đảng lên máy chém. Thế nhưng cộng sản đã giết hại
chúng tôi một cách từ từ, theo thời gian, đã có hàng ngàn chiến sĩ VNCH đã hy
sinh, chôn vùi thân xác, trên vùng Việt Bắc Hoàng Liên Sơn. Cuộc khởi nghĩa Yên
Bái để lại một điểm son trong lịch sử. Cuộc lưu đầy Quân Dân Cán Chính Miền Nam
để lại một vết đen của một thời kỳ tồi tệ nhất lịch sử VN.
Lần lượt từng
chuyến phà đã đưa đoàn tù binh chúng tôi qua bên kia sông Hồng. Bộ Đội Đoàn 776
Nông Trường Trần Phú, đã thiết lập tại nơi đây một dẫy lều tạm, chúng tôi được
hướng dẫn đi bộ đến dẫy lều bạt dựng sẵn, anh em chúng tôi được chỉ định, tạm
nghỉ trong khu lều, vì trời bắt đầu tối. Tôi quan sát chung quanh khu vực, nhận
thấy có hai lớp bộ đội canh gác, một lớp gần lều trại, và một lớp phía sâu bên
trong.
Con số tù nhân chuyển đến đây trên ngàn người,
không chỉ riêng con tầu Sông Hương, có hai khoang hầm chở vào khoảng 900 người,
mà có lẽ còn thêm những con tầu khác chở tù binh, cũng được tầu hỏa chở đến bến
phà Ô Lâu. Do sự phân chia theo từng nhóm nhỏ, do đó tôi không thể quan sát hết
được.
Chúng tôi ngủ lại
một đêm trong những căn lều, dĩ nhiên là trải chiếu hay (poncho) lên cát mà nằm.
Việc đầu tiên là lo cho cái bao tử, chúng tôi được phát mỗi người một gói mì
(mì ăn liền), chúng tôi tự đun nước sôi, bằng lon guigoz để nấu mì gói.
Đêm đầu tiên nằm
trên đất Yên Bái, hơi ấm của đất cát, do cái nóng còn lưu lại, như đang sưởi âm
tấm lưng, tôi duỗi chân trên cát, thật thoải mái, vì mấy ngày qua, nằm trong tư
thê bó gối. Gió mát từ bờ sông thổi về, nhìn về dòng sông lấp loáng những vết
sáng, mập mờ bóng của một con đò nhỏ lướt qua. Trên bầu trời tối đen, những vì
sao lấp lánh đang hiện dần, mỗi lúc một nhiều hơn, nhín ánh sao đêm, lòng tôi lại
bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ những ngày tháng thật êm đềm bên mái ấm gia đình,
thật đơn sơ nhưng đượm tình yêu thương, tôi nhớ về những ngày tháng trong quân
đội, một đoàn quân thật hùng mạnh dưới chính thể VNCH, bỗng dưng thua cuộc,
trong một thế cờ mà người chơi không có quyền lựa chọn.
Tôi ngủ thiếp đi
lúc nào không biết, khi giật mình thức giấc thì trời đã hừng sáng. Tất cả anh
em chúng tôi đều thực dậy, khăn gói quả mướp sẵn sàng ra đi. Mặc dù không nói
ra, những anh em chúng tôi đều có một suy nghĩ chung, ước gì có một ly café buổi
sáng thì hay biết mấy.
Tôi cùng chung mấy
người bạn, đi nhặt vài nhánh củi khô nhóm lửa, vậy mà cũng kịp nấu một lon Guigoz
nước sôi, pha ít trà (móc câu) mang theo từ miền nam. Vị trà hơi chát và đắng,
nhưng sau khi uống để lại một vị ngọt trong cổ họng, đã làm tình thần anh em
thêm một chút thoải mái, rồi mặc kệ nó “muốn ra sao thì ra” (let it be will
be).
Chúng tôi được lệng
tập trung, thành từng nhóm nhỏ, lần lượt lên xe Molotova, chiếc xe không bị che
bít bùng, như di chuyển trong miền nam, vì chuyến đi lần này trên vùng đất rừng
núi của miền bắc. Đoàn xe khởi hành, chạy theo con đường nhựa, gập ghềnh vì nhiều
ổ gà, có lúc rẽ vào nhũng con lộ đất đỏ, cuốn theo bụi mù, anh em chúng tôi bị
nhồi qua lắc lại, thật mệt mỏi. Khi xe chạy qua khu dân cư, chiếc xe như cố
tình đi chậm lại, để cho người dân có cơ hội ném đá, những hòn đá ném vào chúng
tôi, kèm theo những lời chửi tục. Cũng có người bị đá ném trúng, để lại vết bầm
tím.
Sau này chúng
tôi mới biết, tất cả hành động này đều do sự sắp xếp của công an xã, họ bắt người
dân phải làm như vậy. Đây là chủ chương của đảng, nhằm mục đích nâng cao lòng hận
thù.
Trại 4 Huyện Văn Chấn
Hoàng Liên Sơn.
Đoàn xe chở tù
phân ra nhiều ngã rẽ, đưa tù nhân đến những trại tù khác nhau. Riêng đoàn xe chở
anh em chúng tôi, chạy về Thị Xã Mỵ, Huyện Văn Chấn, Tỉnh Hoàng Liên Sơn. Dưới
sự quản thúc của đoàn 776 Bộ Đội Nông Trường Trần Phú. Hoàng Liên Sơn, họ phân ra từ trại
1 đến trại 6. Tất cả có 6 trại, nằm rải rác trong Huyện Văn Chấn.
Đoàn xe chở
chúng tôi, đi đến thị xã Mỵ, chạy vào sâu trong vùng rừng núi. Đoàn xe dừng lại
vì không còn đường đi. Chúng tôi xuống xe, đi bộ theo con đường đất núi, men
theo những trườn dốc, chúng tôi đến trại 4. Trại 4 có Hòm Thư là
L4T4.
Có một trạm gác,
cũng là cửa ngõ chính ra vào trại, đi men theo dòng suối, là con đường độc đạo,
đi vào trại 4. Khu trại này cũng được tù nhân đến trước xây dựng, bằng vách nứa,
lợp mái lá tranh, hàng rào trại cũng bằng tre nứa, giữa khu đất trống bên sườn
núi.
Trại 4 được chia làm 2
khu, khu A và khu B,
cách nhau cái hàng rào bằng tre nứa. Trại tù nằm ở nơi thâm sâu, cùng cốc này
hoàn toàn không có điện, ban đêm dược thắp sáng bằng những ngọn đền dầu leo
loét, thật buồn thảm.
Chúng tôi được
phân ra thành từng dội, và chỉ định khu vực, tôi và một vài anh em đi chung,
như Lâm Ngọc Chiêu, Nguyễn Văn Quý, Dương Văn Chương, Lê Anh Thượng, Nguyễn Văn
Vạng vào
khu B.
Cuộc lưu đầy của
anh em chúng tôi, chính thức bước sang một trang sự mới, bi đát hơn, tại một
nơi “khỉ ho cò gáy” thâm sâu cùng cốc, Mấy ai biết được nơi chốn này.
Từ phía láng trại
của tù, nhìn qua bên kia vách núi là doanh trại bộ đội, khu vực quản lý trại
giam, nới ấy đặt những tròi canh gác, những khẩu đại liên và súng AK47, chĩa thẳng
qua phía chúng tôi, mặc dù là hai bên sườn núi, nhưng khoảng cách không xa lắm,
nếu có bất cứ chuyện gì xẩy ra, anh em chúng tôi sẽ nằm trong tầm đạn của bộ đội.
Hai ngày sau,
khi chưa kịp làm quen với khu vực trại mới chuyển đến. Một buổi sáng sớm anh em
chúng tôi được lệnh tập trung chuyển trại. Tất cả vội thâu gom hành lý xếp hàng
trước sân, bộ đội ra lệnh cho anh em chúng tôi di chuyển, ra khỏi cổng trại một
quãng đường không xa lắm, họ ra lệnh dừng lại.
Cán bộ phụ trách
từng đội, ra lệnh cho chúng tôi đứng lại tại chỗ, bỏ hết đò đạc xuống đất, bày
ra để kiểm tra, đến lúc này chúng tôi mới biết, lệnh chuyển trại chỉ là “hư
binh”, muc đích chính là họ muốn kiểm tra hành lý của anh em chúng tôi.
Lần kiểm tra này
gần như bị tịch thu toàn bộ, vì yếu tố bất ngờ, nên không thể cất dấu những thứ
cần thiết. Tuy nhiên chúng tôi đã ra dấu cho nhau, hãy đào lỗ dưới đất chôn lấp
bớt những thứ cần thiết, như thuốc tây, trụ sinh, thuốc ký ninh, thuốc sốt rét,
mấy thứ vật dụng, như cắt móng tay vân vân.
Sau lần kiểm tra
này, cán bộ đã tịch thu rất nhiều camen, ca uống nước và bidong bằng hynock,
tóm lại những gì họ thích, thì có thể tịch thu, nhất là một số thuốc tây mà người
tù mang theo để phòng thân. Riêng cá nhân tôi, vẫn dấu được vì kịp thời đào lỗ
chôn dấu, sau này có dịp đi lao động, chúng tôi sẽ lấy lại. Đây cũng là màn trào
sân mở đầu theo binh pháp (Dương Đông kích Tây) của bộ đội.
Tiếng cười từ địa ngụ.
Sức khỏe của anh
em tù yếu dần, vì đói, ở nơi rừng thiêng nước độc này, không có gì để kiếm thêm
miếng ăn, như củ khoai, củ sắn, thậm chí cóc nhái cũng rất hiếm, anh em đi lao
động, chui rúc vào bụi tre, may ra kiếm thêm mụt măng non, hay xuống suối, mò
cua, bắt cá, cũng chỉ là những con cá lòng tong bé xíu.
Hàng
năm từ tháng 7 đến tháng mười, mùa mưa lũ lại về trên vùng rừng núi Hoàng Liên
Sơn, những đợt mưa liên tiếp, kéo dài, nước tràn về từ các triền núi, đổ xuống,
tạo ra những dòng nước lũ, mực nước suối, hay sông hồ dâng cao. Những con đường
đất núi, thêm lầy lội, loại bùn đất đỏ, mền dẻo như đất sét, bám chặt vào chân,
khiên cho bước chân đi càng thêm chơn chượt và nặng nhọc hơn.
Mưa lũ mang theo
cái lạnh buốt của núi rừng, một không gian ảm đạm, mịt mù khói sương, mang theo
nỗi buồn chết người, khiến cho tâm trạng người tù thêm đau buốt không nguôi.
Tôi
còn nhớ một ngày mưa lũ như thế, khi tôi đứng trên một sườn núi, nhìn về hướng
sông Hồng, mịt mù xa thẳm, tôi chợt hát lên một vài câu, mà ngay lúc đó tâm hồn
tôi, như muốn nói lên điều gì đó để trải bày một tâm trạng đau thương, của một
người tù binh chiến tranh, một tù nhân lương tâm còn nặng nợ với núi sông.
Tôi chợt nghĩ đến
một bài hát, một giai điệu, do tôi mới viết trong thời gian gần đây, khi đến
bên dòng sông Hồng, tôi hát thật khẽ như chỉ vừa đủ mình tôi nghe.
-
Một ngày mùa thu - Hoàng Liên Sơn ngập trời mưa lũ anh đi.
Lạnh lùng đồi
hoang - Vai anh mang xiềng xích lênh đênh.
Nhìn về dòng
sông - Mây giăng ngang khung trời đen tối.
Cuộc đời dần
trôi - Quê hương tôi loang vết đọa đầy.
Tôi mô tả bằng từ
ngữ “loang vết đọa đầy” vì thời điểm này, trên khắp đất nước, bất cứ nơi đâu
cũng có nhà tù, nó như một thau nước, người ta đổ dầu vào, những vết dầu sẽ
loang ra thành từng mảng, nổi trên mặt nước. Ca khúc này tôi đã viết ra tờ giấy
xi măng (cement), dĩ nhiên tôi chỉ viết nốt nhạc, còn lời bài hát, tôi đã thuộc
lòng, nếu tôi viết ra lời bài hát, thì tôi sẽ bị ghép tôi phản động, và bị biệt
giam ngay lập tức.
Tình hình trại 4
càng lúc càng bi đát hơn, vì đói rét, vì tương lai mù mịt, chúng tôi bị giam cầm
nơi núi rừng, cách biệt hoàn toàn với xã hội bên ngoài, và càng xa vời hơn với
miền nam yêu thương, dĩ nhiên mọi tin tức liên lạc với gia đình chúng tôi, hoàn
toàn biệt tăm. Đây là giai đoạn bi quan nhất của tù cải tạo, nếu anh em chúng
tôi, những sĩ quan của Quân Lực VNCH, không kiên cường chịu đựng, với một ý trí
mạnh mẽ và hào hùng của một quân nhân, chúng tôi đã bỏ thây nơi đây rất nhiều.
Vậy mà cũng có
người bạn tù, không chịu đựng được, có lẽ do tác động bởi yếu tố gia đình, quá
thương nhớ Cha Mẹ già, hay vợ con, đã dẫn đến cái chết thật oan khiên.
Một hung tin đến với
anh em tù trại 4, chúng tôi bàng hoàng nghe tin.
Trung-Uý Tôn Thất
Hiệp, Sĩ Quan Quân Báo Lực Lượng Đặc Biệt sau chuyển qua Biệt Động Quân,
anh Hiệp ở bên khu A, đã tự vẫn vào đêm, rạng sáng ngày 19 tháng
6 năm 1977. Anh Thiệp đã uống quá nhiều thuốc sốt rét (chroroquine) để quyên
sinh.
Trung úy Tôn Thất Hiệp
đã vĩnh viễn ra đi, đã nằm xuống cho hận thù vào lãng quê. Thân xác anh vùi
chôn nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn.
Một hôm tôi và một số anh em cùng
đi chặt tre, chúng tôi đến bên dòng suối, trong khoảng tối âm u, dưới những
tàng cây và những bụi tre rậm rạp, một
không gian mờ ảo, lạnh lẽo như trong cõi xa vời nào đó nơi địa ngục.
Bỗng dưng có một
tiếng cười thật lớn, vang vọng cả vùng rừng núi, âm vang của tiếng cười như chạy
dài theo dòng suối, tiếng cười kéo dài mang theo một âm hưởng thật ma quái rợn
người, như vừa thốt lên từ địa ngục u tối.
-Tôi
giật mình nhìn quanh và lên tiếng hỏi
-Ai mà có tiếng
cười thật ma quái, nghe như phát ra từ đáy địa ngục
-Anh Quý người bạn
thường đi lao động chung với tôi, trả lời
-Thằng
Vạng đó, hình như nó sắp điên rồi
Từ khi đó tôi để
ý đến Thiếu úy không quân, Phi công (C 47) Nguyễn Văn Vạng, người Cần Thơ. Anh
Vạng có vợ, vợ anh là một thiếu nữ xinh
đẹp như hoa khôi của Bến Ninh Kiều, khi Vạng bị đi tù cải tạo, thì vợ anh mới
sinh đứa con đầu lòng
Nguyễn Văn Vạng ở
cùng đội với tôi, từ miền Nam ra đến miền Bắc, một thanh niên miền Nam thuần
túy, rất hiền lành, ít nói, dường như anh sống nhiều về nội tâm, như mang nặng
một nỗi buồn, mà không thể diễn tả thành lời.
Anh
em chúng tôi cũng suy đoán được một phần nào tâm trạng của Vạng, có lẽ anh đang
buồn về chuyện vợ con. Vạng rất yêu thương và lo lắng cho người vợ bé nhỏ tại
quê nhà, sống dưới chế độ hà khắc cộng sản, mọi đạo lý làm người bị đảo ngược,
để xùng bái một lý tưởng vô thần, không tôn giáo, không gia đình và không tổ quốc.
Anh Vạng mới nhận
được một tin thật buồn, vợ anh đã chia tay. Ai mà không có những nỗi buồn, nhất
là trong hoàn cảnh tù tội như anh em chúng tôi, mỗi người có một nỗi buồn khác
nhau, tuy nhiên tất cả anh em chúng tôi, đều có một mẫu số chung về nỗi buồn,
đó là “Gia Đình”. Mỗi gia đình một hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên mỗi người có
một cách, để chuyển hóa nỗi buồn, đừng quá bi lụy đau thương, dẫn đến những suy
nghĩ không hay. Đó chính là phương cách hay nhất.
Một ngày như mọi
ngày tại trại 4, nơi chốn rừng thiêng nước độc, anh em chúng tôi đi lao động,
khi bước đến bờ suối, tiếng nước chảy réo rắc xuyên qua gềnh đá, một không gian
tĩnh lặng và âm u, dưới bóng dâm của những tàng cây, che khuất ánh mặt trời.
Thấp thoáng một
vài người đang chần chừ, bước qua con suối, bỗng dưng có một tiếng động dồn dập
vang lên thật lơn, như có một vật gì thật to, từ trên cao rơi xuống thật mạnh,
một tiếng ầm rơi xuống con suối, mặt nước bắn tung tóe, có tiếng thét la lớn.
-Có người từ
trên cao rơi xuống suối.
- Tôi kịp nhận
ra tiếng hét thất thanh đó là Lâm Ngọc Chiêu
- Chiêu nói tiếp,
chết rồi thằng Vạng từ sườn núi cao té xuống.
Chiêu cùng với anh em đứng gần,
chạy đến kịp thời kéo Vạng ra khỏi vũng nước sâu.
Anh em làm hô hấp, cấp cứu. Anh Vạng
thở nhẹ, mở to mắt, thất thần nhìn ngơ ngác.
Cũng may Vạng
rơi từ trên cao xuống, đúng ngay chỗ nước sâu, không rơi vào nơi gềnh đá. Số Vạng
chưa chết, anh em vội đưa Vạng về trại, trên nét mặt của anh Vạng đã tái xanh,
như người chết rồi.
Sau này anh em
biết, Vạng muốn tự vận chết, anh cố tình gieo mình từ trên cao xuống gềnh đá
phía dưới, nhưng số anh chưa chết lúc đó, thân xác anh rơi đúng chỗ nước sâu.
Cũng có một điều lạ lùng, cả người anh Vạng chỉ bị trầy xướt xơ, mặc dù anh đã
rơi xuyên qua những bụi tre.
Mọi chuyện rồi
cũng chìm vào quên lãng, những người tù như anh em chúng tôi đã quá mệt mỏi,
cái đói, cái lạnh, bám chặt không buông tha chúng tôi, trong tâm trạng thật
chán đời, xem cái chết nhẹ như lông hồng.
Một buổi sáng thật
sớm, trời còn mờ tối, sương mù còn giăng mắc quanh sườn núi, cái lạnh như cắt
da xẻ thịt.
Một tiếng hô cấp
cứu vang lên thật to trong láng trại
Anh em thức dậy,
hỏi cái gì đó?
-Một anh trả lời, thằng Vạng sắp chết rồi.
-Số đông anh em
chúng tôi cùng hô to tiếng cấp cứu, để bên kia sườn núi, phía bên
kia ban chỉ huy trại, cán bộ coi
tù, họ sẽ nghe tiếng.
Một số bộ đội gác
đêm, chạy đến hỏi
-Cái gì mà các
anh làm ầm lên thế
-Anh đội trưởng,
trả lời
-Đội chúng tôi
có Anh Nguyễn Văn Vạng đang hấp hối, chân tay co giựt, cần đi cấp cứu. chuyển
lên trạm xá ngay nếu không anh ấy sẽ chết.
Vạng đã uống 11 viên thuốc ký
ninh (chroroquine) viên thuốc màu đỏ, loại thuốc chống sốt rét thường phát cho quân đội.
Anh Vạng đã cố tình, thu lượm loại thuốc ký ninh và uống quá nhiều, chất thuốc
đã thấm vào máu, làm rối loạn nhịp tim, dẫn đến co giật và hôn mê. Giống như
cái chết của Tôn Thất Hiệp cách đây vài ngày.
Cán bộ ra lệnh
cho chúng tôi, lấy cây tre dài làm đòn khiêng, và một cái võng, 4 người khiêng
Anh Vạng đi cấp cừu. Trạm xá gần nhất là Thị xã Mỵ, cách đây vài cây số.
Lâm Ngọc Chiêu,
Lê Anh thượng, Nguyễn Văn Quý và tôi (Lê Tuấn), 4 người bạn cùng trang lứa với
Vạng, chúng tôi đặt Vạng nằm trên võng và khiêng anh đi như chạy trong màn
sương mờ của núi rừng.
Hai cán bộ cầm
đèn bin dẫn đường, ra khỏi cổng trại, đi theo con đường mòn, men theo vách núi,
con đường đất đỏ chơn chượt vì mưa, những lớp bùn đất dính vào bàn chân, mỗi
lúc một dầy cộm, bước chân nặng nề rất khó đi.
Cái đòn gánh
trĩu nặng cong theo sức nặng của một người đang nằm trong võng, thân xác anh Vạng
đong đưa theo nhịp bước chân đi.
Chúng tôi đi một
lúc thì trời cũng mờ sáng, một cánh tay của Vạng rơi thòng xuống đong đưa, như
đang vẫy chào tạm biệt. Chúng tôi dừng lại, xem tình trạng của Vạng, thì nhận
biết anh Vạng đã trút hơi thở cuối cùng.
Đôi mắt anh mở
trừng, miệng há to, như cố lấy thêm không khí (oxygen), tim anh đã ngừng đập,
chúng tôi đã vuốt mắt anh.
Chúng tôi nói với
2 người bộ đội dẫn đường
-Báo cáo cán bộ.
Anh Vạng đã chết. Bộ đội trả lời
-Các anh khiêng
anh ấy về trại, chờ đem đi chôn.
Chúng tôi quay đầu,
khiêng Vạng trở về trại, trên con đường trở về, mà sao trong lòng chúng tôi
mang một nỗi buồn không tả được. Tiễn đưa một người bạn, đã sớm từ bỏ cuộc
chơi, để trở về cát bụi, trở về cõi vô thường.
Thân phận một
người tù, một người lính đã bị ép buộc buông rơi súng trận, trở thành tù binh
chiến tranh, đang bị giam cầm nơi rừng núi hoang vu, ở nơi chốn, mà thế giới
loài người chưa hề biết đến. Anh em chúng tôi, những sĩ quan của một Quân Lực
VNCH, hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á Châu. Bỗng dưng tan biến đi, nổi trôi theo
vận nước, để bây giờ sống kiếp tù đầy tại nơi đây.
Thiếu úy Không
Quân Nguyễn Văn Vạng đã bỏ lại thân xác nơi đây. Ngày 23 tháng 6 năm 1977. Anh
không chết ngoài chiến trường, trong những phi vụ oanh tạc, yểm trợ tại chiến
trường. Mà anh chết như một chiến sĩ vô danh, một tù nhân lương tâm. Anh đã trở
thành một nhân chứng cho một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử, của lòng hận
thù, mà cộng sản miền bắc, đã có dã tâm muốn tiêu diệt anh em chúng tôi.
Âm vang ca khúc
“Hát cho người nằm xuống” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đã viết để tưởng nhớ, một phi
công trước năm 1975 (Đại tá Lưu kim Cương). Tôi vẫn biết Trịnh Cộng Sơn là tay
cộng sản nằm vùng, đâm sau lưng chiến sĩ, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, ý tưởng
của bài hát vẫn phù hợp với hoàn cảnh đau thương của người tù.
Trong ca khúc
này có một đoạn rất hơp với cái chết của Nguyễn Văn Vạng, tôi xin mượn ý tưởng
này để nói lên tâm trạng của một tù binh chiến tranh.
“Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó trong trời rộng đã vắng anh.”
Hôm nay trong
thân phận người tù, chúng tôi đang
khiêng thân xác anh, lầm lũi cúi
mặt bước đi trong tủi hờn, chúng tôi xin gửi đến anh lời thơ vĩnh biệt. Bài thơ
do chính tôi viết để tiễn biệt Nguyễn Văn Vạng.
Vĩnh
biệt từ nay vắng một người
Mà
nghe mặn chát mãi không nguôi
Xót
thương! Nhớ đến người tù lớn
Nhói
đau! Nuốt hận cả một đời.
Thương
nhớ anh! Sao không tiếng khóc
Thân
tù đây! Nước mắt cạn khô
Nguyễn
Văn Vạng, từ nay vĩnh biệt
Tiến
đưa anh, về cõi hư vô.
Chúng
tôi đi vào trại giam, trên đường vào trại, đi đến hội trường, nơi tạm để xác
anh Vạng. Một số anh em tù, nhìn thấy, tất cả đều đứng nghiêm bỏ mũ chào.
Qua
ngày hôm sau, nhóm tù trong đội thợ mộc, đã đóng xong cỗ quan tài bằng gỗ. Một
lần nữa 4 anh em chúng tôi được chỉ định khiêng Nguyễn Văn Vạng đi chôn, trên đầu
cố quan tài, cán bộ trại cũng nghe chúng tôi yêu cầu, nên họ cũng cho một bát
cơm và một quả trứng luộc tiễn đưa người quá cố.
Bốn
anh em chúng tôi khiêng anh lên ngọn đồi lưng chừng núi, ở nới ấy có một huyệt
sâu đã đào sẵn. Anh em chúng tôi vái lậy, tạm biệt anh lần cuối. rồi đưa quan
tài anh xuống huyệt sâu, lấp đất lại.
Cuộc
đời của người tù đến đây là chấm hết, cát bụi trở về cát bụi, không một giọt nước
mắt tiễn đưa của người thân, không có mảnh khăn tang trắng quấn ngang đầu, thậm
chí cũng không có cả nén nhang tiễn biệt. Xin gửi lời chào tạm biệt Nguyễn Văn
Vạng, thân xác anh đã vùi sâu trên núi rừng Hoàng Liên Sơn.
Tình
hình đời sống của anh em tù trại 4, càng ngày càng tồi tệ, mùa đông tại nơi này
rất lạnh, cái lạnh buốt thấu xương. Anh em chúng tôi không có đủ quần áo ấm, phải
co ro đón nhận những luồn gió lạnh buốt thổi về.
Nhiệt
độ xuống thấp về đêm, cộng thêm cái đói triền miên, mỗi bữa ăn chỉ vỏn vẹn một
miếng bột mì luộc hình tam giác bằng 3 ngón tay chập lại, hay vài lóng khoai mì
luộc, đôi khi còn bị sượng, trông như những
cây đèn cầy (cây nến trắng). Chúng tôi phải uống thêm nước cho bớt cồn cào, vì
cái bao tử trống rỗng, uống nhiều nước, thì đi tiểu nhiều vào ban đêm, ra ngoài
vào ban đêm thì gặp luòn gió lạnh buốt, do đo anh em chúng tôi, mỗi người tạo
cho mình một ống tre, hay ống cây vầu, làm thêm quai sách, treo ngay bên cạnh
chỗ năm, mỗi khi cần là (bi) ngay vào ống cho tiện.
Cán
bộ trại giam, họ cũng thông cảm, cho phép chúng tôi, cắt thêm rơm rạ, đem về
lót dưới giường nằm cho ấm, họ cũng cho phép chúng tôi đốt một đống lửa giữa
láng trại để sưởi ấm, bởi vì chỗ ở của chúng tôi chỉ là, nhà tranh vách nứa,
gió lạnh lùa vào từng cơn. Nhờ đống lửa giữa nhà, anh em nào không ngủ được vì
quá đói, ra ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa bập bùng, chúng tôi mơ có một nồi khoai nấu,
hay vài củ khoai vùi trong đồng lửa, nhưng ước mơ này cũng trở nên quá lớn, quá
xa vời trong giai đoạn này.
Nhà
bếp hôm nay phát cho mỗi người một cái bánh bao, nhìn cái bánh bao nở phồng,
tròn như nắm tay, mỗi người chỉ có một cái không hơn, ăn vùa đủ cầm hơi, không
chết vì đói. Vậy mà cũng rất ngon, nhân bánh là những lá cải, hay cọng rau cải
bầm nhỏ, vo tròn làm nhân, bánh bao chay mà có lẽ những nhà tu hành chân chính,
cũng không kham nổi vì khẩu phần ăn quá ít. Thịt và chất béo ở trại tù, là những
thứ cao sang, ít khi nhìn thấy, nó chỉ được đếm trên đầu ngón tay, trong một
năm có mấy ngày lễ lớn, thì có mấy ngày được ăn một chút chất thịt (protein).
Sau
khi nuốt xong cái bánh bao và uống thêm một lon guigoz nước, anh em chúng tôi
nhận xét về đội (anh nuôi) nhà bếp, bánh bao là sản phẩm của, nhà thơ Đại Lãn,
Nguyễn Thượng Dực trưởng bếp chế biến, sau này anh em chúng tôi đặt tên cho anh
là (Cả Dực) chữ Cả ở đây ám chỉ, một thương hiệu bánh bao nổi tiếng ở Sai Gòn,
đó là (bánh bao Cả Cần)
Đại
úy Nguyễn Thượng Dực, Sư đoàn 7 bộ binh, tức nhà thơ Đại Lãn. Một người rất hoạt bát, nói chuyện rất có
duyên, thơ văn lưu loát. Tôi rất phục anh Dực ở cái tài, thuộc vanh vách những
bài thơ mà anh mới đọc qua, trong câu chuyện kể của anh, luôn luôn kèm theo những
vần thơ rất có ý nghĩa, mà đa phần là loại thơ trào phúng dỉ dỏm.
Nguyễn
Thượng Dực thường kể về một thời huy hoàng, mang nhiều kỷ niệm nhất của anh. Đó
là thời gian anh đứng ra tổ chức một buổi văn nghệ thật vĩ đại tại Phủ Tổng Thống
(Nguyễn Văn Thiệu). Anh có toàn quyền chọn lựa những nghệ sĩ tên tuổi vào thời
đó, để trình diễn văn nghệ tại Dinh Độc Lập. Ngoài ra Nguyễn Thượng Dực cũng là
một thành viên trong Hôi Hướng Đạo Sinh, cũng nhờ sinh hoạt trong Hướng Đạo
thâm niên, do đó anh Dực quen biết rất rộng, chính điểm này, anh em đề cử anh Dực
làm nhà bếp.
Trong
thời gian này, tình trạng sức khỏe của anh em rất bi đát, rất nhiều người bệnh,
bị kiết lỵ, hay sốt rét rừng, đa số anh em tù xanh sao như tầu lá chuối, bước
đi liêu xiêu như bộ xương người chuyển động. Chính trong thời gian này, tôi
cũng bị bệnh rất nặng, tưởng chừng đã chết bỏ thây nơi đây, buổi sáng thức dậy
vừa bước xuống giường tôi đã ngã nhào, đi đứng rất khó khăn, miệng khô đắng, một
phần ăn chỉ là 3 đốt con tay, bột mì luộc, tôi cũng không nuốt trôi. Ấy vậy mà,
tôi cũng không hiểu có một phép lạ nào đó, đã giúp tôi sống lại sau mấy ngày nằm
liệt giường.
Tại
trại 4, cùng một thời gian có nhiều anh em tù bệnh hoạn giống như tôi, tuy
nhiên có một người cũng bị bệnh, nhưng tên tuổi ông rất nổi tiếng trước 1975.
Đó là Trung Tá Không Quân (Nha Khí Tượng) Cung Thúc Cần, tức nhà thơ Cung Trầm
Tưởng. Ông qua Pháp du học tại trường Kỹ Sư Không Quân, sau khi tốt nghiệp, ông
trở về nước phụ vụ trong binh chủng Không Quân QLVNCH.
Anh Nguyễn Thượng Dực đã nấu một nồi nước xông
hơi, đem cho Cung Trầm Tưởng, nồi nước xông này rất đặc biệt, nó như một phép mầu
làm cho nhà thơ Cung Trầm Tưởng bừng tỉnh.
Chính
anh Dực đã kể lại câu chuyện này, anh nói.
Có
một chuồng nuôi gà của cán bộ trại, nằm gần nhà bếp, anh Dực lén lút bò lại gần,
một cách rất nhẹ nhàng, anh thò tay vào ổ con gà mái đang ấp trứng, lấy 8 quả
trứng trong ổ, chỉ để lại 2 quả cho con gà mái, con gà vẫn tiếp tục ấp trứng mà
không kêu một tiếng
Anh
Dực đã bỏ trứng gà, cuộn chung với lá vào nồi nước xông, đem vào láng trại cán bộ quản giáo, bắt người trực trại khám kỹ
nồi nước, xem có gì ở trong đó hay không, cũng may họ không phạt hiện, những quả
trứng gà nằm bên trong. Anh Dực đem vào tận chỗ nằm cho Cung Trầm Tưởng, và ra
dấu cho biết có trứng gà luộc dưới đáy nồi. Những quả trứng gà, như một thần dược,
qua ngày hôm sau nhà thơ Cung Trần Tưởng đã hồi phục, như có một phép lạ từ trời
cao ban xuống.
Có
một ngày cuối tuần, miễn lao động, chúng tôi ngồi nói chuyện với nhà thơ Cung
Trầm Tưởng, nói chuyện về thơ văn. Cung Trầm Tưởng đã viết tặng tôi bài thơ
(Chưa bao giời buồn thế) trên tờ giấy bao xi măng. Bài thơ này đã trở nên nổi
tiếng khi nhạc sĩ Phạm Duy đã gộp chung hai bài thơ (Mùa Thu Paris) và (Chưa
bao giờ buồn thế) Phạm Duy lấy tên cho ca khúc (Tiễn Em). Nhạc sĩ Phạm Duy đã
chọn 6 bài thơ trong tập thơ (Tình Ca) của ông để phổ nhạc.
Nhà
thơ Cung Trầm Tưởng đã trải qua 10 năm tù, chuyển qua nhiều trại giam khác
nhau. Ông đã định cư tại Hoa Kỳ năm 1993.
Trong
thời gian ở trại 4. Thỉnh thoảng ban chỉ huy trại tổ chức những buổi (lên lớp)
nghĩa là những buổi học tập chính trị. Anh em chúng tôi được nghỉ lao động, tập
trung tại hội trường ngồi nghe cán Bộ Chính Trị giảng về Chủ Nghĩa Xã Hội. Họ
nói như một cuộn băng nhựa (cassette) cũ đã thu đi thu lại nhiều lần nên bị
nhão. Họ nói về một thiên đưởng mù, một chủ thuyết không tưởng, mà cả nhân loại
đều muốn vứt bỏ vào thùng rác. Ngay cả cái nôi sinh ra chủ thuyết cộng sản, đó
là Nga Xô, cũng đã từ bỏ chủ thuyết cộng sản. Nhưng không hiểu vì lý do gì đảng cộng sản Việt nam vẫn cố
bám giữ lấy như một thứ bùa hộ mệnh cho riêng mình.
Cán
bộ chính trị viên, đang thao thao nói về thời gian máy bay Mỹ trải thảm tại Hà
Nội.
-
Tay thượng úy chính trị viên đứng trên bục
cao, nhìn xuống anh em chúng tôi đang ngồi, Thượng úy Chính trị viên, nói lớn
như một niềm tự hào vĩ đại lắm.
-
Các anh biết không, có cụ già 70 tuổi,
buổi tối vẫn còn cầm súng làm anh hùng, bắn rơi may bay địch.
Anh
em chúng tôi nhìn nhau tủm tỉm cười. Cán bộ không hiểu điều gì xẩy ra.
Mãi
sau này anh ta mới biết chúng tôi cười đểu, vì tử ngữ (bắn máy bay) cùng đồng
nghĩa với từ ngữ (vẽ bản đồ). Thời trai trẻ, những chàng thanh niên, ngủ say mơ
gặp người đẹp rồi tự nhiên thằng nhỏ, ngổn cao nòng súng bắn rơi máy bay (Đầm
già), hay buổi sánh thực dậy nhìn xuống quần đùi thấy loang lổ như vẽ bản đồ,
là biết ngày chuyện gì xẩy ra.
Họ
tin tưởng một cách mù quáng về những gì đảng nói. Như câu chuyện cụ già 70 tuổi
cầm sung AK47 bắn rớt máy bay Mỹ, và được phong danh hiệu Anh Hùng Giệt Mỹ. Câu
chuyện tiếu lâm này, không khác gì câu chuyện những anh cán ngố, hay nổ về bộ đội
không quân anh hùng. Lái máy bay Mic 21 nấp vào trong mây, tắt máy chờ máy bay
Mỹ đến gần, rồi bay ra bắn hạ máy bay địch.
Đến
khi nghe cán bộ đọc bản tin thời sự quốc tế, lại được dịp cười té đái.
Cán
bộ đọc:
Các
anh biết không, tình hình thế giới hiện tại hai nước Một răng (Iran) và Một Rắc
(Iraq) đang tiếp tục đánh nhau. Anh ta không đọc được chữ nước ngoài, do đó chữ
I (ai) anh ta nghĩ là số một, nên đọc là một răng, một rắc.
Có
một lần vào ngày cuối tuần được nghỉ. Cán bộ quản giáo đến nói chuyện tâm tình
với anh em chúng tôi, ngay trong láng trại.
-
Cán bộ nói:
- Tôi
biết các anh rất buồn phải xa nhà, vì các anh đang học tập cải tạo, khi nào đảng
nhận biết các anh tiến bộ, thì cho các anh về. Các anh và chúng tôi cũng đều là
người Việt Nam.
Chúng
ta cùng một mẹ sinh ra, như câu chuyện lịch sử Vua Hùng Vương lấy Bà Triệu Ẩu, đẻ
ra một bọc nở ra trăm đứa con, 50 lên núi, 50 xuống biển.
Chúng
tôi nhìn nhau, mỉm cười vì biết, cán bộ nhớ sai về lịch sự, ông này lẫn lộn giữa
Bà Âu Cơ và bà Triệu Ẩu. Thôi thì chúng tôi cũng hiểu ý chính của cán bộ muốn
nói gì.
Về
sau này chúng tôi đã đặt cho Cán Bộ này một biệt danh (Triệu Ẩu), bất cứ khi
nào, chúng tôi thấy cán bộ từ xa đi đến, đã vội thông báo cho nhau biết.
-
Anh em coi chừng nghe. Triệu Ẩu đang đến, mọi người đều biết đó là ai.
Câu
chuyện tiếp theo. Còn một tay cán bộ nữa, ông này mang cấp bực Thượng Úy bô đội,
thường hay đưa đội chúng tôi đi lao đông. Ông này rất thích giảng bài.
Vừa
ra khỏi trại cán bộ này bắt anh em chúng tôi dừng lại trên đường, nghe anh ta
nói về những nhân vật lãnh đạo tối cao của đảng, anh ta tôn sùng bác Hồ và các
lãnh đạo trong bộ chính trị như thần thánh, anh ta nói:
-
Các anh biết không Bác Tôn Đức Thắng là
Chủ
Tịch Nước, bác cũng là người miền Nam. Bác Tôn chỉ có
một cái áo sơ mi, vào mùa hè, bác Tôn, nói bác gái tháo
cánh tay dài ra, làm áo cộc tay mặc cho mát, đến mùa
đông, bác Tôn lại, nói bác gái may tay dài vào, để mặc cho
ấm vào mùa đông. Một
câu chuyện thật tiếu lâm, buồn
cười vậy mà họ tin là thật.
Đấy
các anh thấy có lý thú không, một lãnh tụ mà biết tiết kiệm cho nhân dân như vậy
đó. Lý thú lắm các anh ạ. Mỗi lần ông cán bộ này thuyết giảng xong, ông đều
thêm câu nói. Lý thú lắm các anh ạ.
Về
sau anh em chúng tôi đặt cho anh ta biệt danh (Lý Thú)
Mội
khi thấy cán bộ này từ xa, chúng ta đã lên tiếng báo động cho nhau biết
-
Coi chừng nghe Lý Thu đang đến, mọi người
đều biết lý thú là ai.
Thấm thoát thời gian cũng qua mau, anh em chúng tôi cũng quen dần
với đời sống tù tội tại trại 4. Mỗi lần ban chỉ huy trại, phân chia từng dội
cho anh em chúng tôi đi lãnh thực phẩm, mọi người cũng thấy vui, vì được đi ra
khỏi cái hẻm núi chật hẹp của trại 4, đi ra ngoài thị xã Mỵ, ngắm nhìn những thửa
ruộng bậc thang thật đẹp, đôi khi gặp những cô sơn nữ người Tầy, người Mông, có
một nét đẹp rất hồn nhiên, núi rừng.
Nhưng cái vui nhất không phải ngắm cảnh đẹp hay ngắm những cô
sơn nữ, vì thực sự ra anh em chúng tôi đâu còn hứng thú gì với cảnh đẹp và ngay
cả con gái đẹp, cũng xin chào thua, mà mục đích chính là anh em chúng tôi sẽ có
dịp (cải thiện) thu gom được một chút thực phẩm rơi vãi.
Mỗi lần đi lãnh
thực phẩm, chúng tôi phải đi bộ trên 20 cây số, và mỗi người phải mang vác vào
khoảng 20 ký thực phẩm, rất nặng nhọc, vì đường xa, phải trèo đèo lội suối, đường
đi quanh co theo vách núi. Anh em tù chúng tôi lấy quần dài, buộc túm hai ống
quần lại, đổ bột mì cho thật căng phồng lên, thắt chặt lưng quần, rồi vác trên
vai, như đang vác một hình nộm, có anh vác gạo, hay hạt bo bo, may mắn cho ai
vác bao đường, hay muối, cả hai chất này anh em tù lúc nào cũng thèm khát.
Vì biết trước đi lãnh thực phẩm nên chúng tôi nhúng nước cho cái
quần dài bị ướt, để những loại thực phẩm khiêng vác sẽ bị dính lại, sau khi đổ
hết vào kho, trong ống quần cũng bị dính chút ít thực phẩm, chúng tôi cạo ra
cho vào lon guigoz, thế nào cũng được một bữa no hơn mọi ngày. Đây cũng chính
là niềm vui của chúng tôi.
Đi đến các trại tù khác, để lãnh thực phẩm chúng tôi có thề gặp
lại một vài anh em quen biết trước kia. Khi chúng tôi đến trại số 6 huyện Văn
Chấn, tôi và Lâm Ngọc Chiêu, cả hai đều
là cựu Thiếu Sinh Quân, có dịp nhìn thấy đàn anh AET Thiếu tá Nhảy dù Phạm Đình
Cung (biệt danh Cung Củ đậu) đang là (anh nuôi) nhà bếp tại trại 6. Sau này khi tôi chuyển về trại 3 Tân kỳ, Nghệ Tĩnh, Anh Phạm Đình Cung cũng ở trại 3 Tân kỳ
Tại trại 6 huyện Văn Chấn, còn có một người tù có tên tuổi, đó
là Hoa sĩ Trung Tá Tạ Tỵ, ông sáng tác trên nhiều phương diện, như văn, thơ, kịch
bản và tùy bút. Tác phẩm hội họa của ông cùng được nhiều giải thưởng.
Tạ Tỵ cùng với nhiều họa sĩ khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh
chống Pháp, nhưng sau đó ông nhận ra, đường lối của Việt Minh không phù hợp.
Năm 1950 ông trở vế Hà Nội và di cư vào Miền Nam, ông đã phục vụ trong quân đội
VNCH, cấp bậc cuối cùng Trung Tá Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
Đôi khi anh chúng tôi đi trên đường, gặp những người dân sinh sống
tại nơi đây, họ nhìn chúng tôi với ánh mắt ái ngại, với lòng thương cảm. Có lần
chúng tôi dừng chân nghỉ bên về đường, gần khu nhà dân. Tôi và 2 người bạn đang
ngồi dựa lưng vào vách một căn nhà, bỗng dưng cửa mở, anh chủ nhà mời anh em
chúng tôi vào nhà uống nước, người vợ của chủ nhà bưng ra ba tô cơm nguội và ít
dưa cà với mắm tương, mời chúng tôi ăn.
-
Vợ chồng chủ nhà nói
-
Chúng tôi biết các anh đói
khổ lắm, xin mời các anh bát cơm nguội ăn cho đỡ lòng
-
Vợ chồng chủ nhà nói tiếp
-
Chúng tôi rất mong các anh
ra để giải phòng chúng tôi, nhưng không ngờ các anh lại ra với tư thế một người
tù.
-
Bát cơm nguội với tương
cà, là một bữa ăn thịnh
xoạng cho 3 anh em chúng tôi, hương vị thơm ngon của
loại tương bần, với quả cà muối, đã làm cho tôi nhớ mãi
cho đến ngày nay.
xoạng cho 3 anh em chúng tôi, hương vị thơm ngon của
loại tương bần, với quả cà muối, đã làm cho tôi nhớ mãi
cho đến ngày nay.
Trong lúc chúng tôi ăn bát cơm. Vợ chồng chủ nhà nói tiếp
-
Chúng tôi là những gia
đình bị đầy đi kinh tế mới. Trước kia gia đình chúng tôi
buôn bán tại Hà Nội, sau cải cách ruộng đất, họ ép buộc chúng
tôi phải đi kinh tế mới, và chúng tôi đã lưu lạc đến chốn này.
-
Chúng tôi biết nếu còn thời
gian ngồi nán lại, thi vợ chồng chủ nhà sẽ kể hết những tôi ác của cộng sản, sau Cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Người đầu tiên bị tử hình là. Bà Nguyễn Thị Năm cùng các con.
Bà Nguyễn Thị Năm,
chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội. Đã từng nuôi ăn ở và giúp đỡ, Lê ĐứcThọ, Phạm Văn Đồng và Trường
Chinh, có con trai đầu lòng, là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội
Nhân Dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng
cho chính quyền mới thành lập.
Bà Nguyễn Thị Long, đã
bị tử hình trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, vì tội địa chủ, sau khi bà bị ông Hồ
Chí Minh viết bài tố "Địa Chủ Ác Ghê" qua bút danh C.B.
Ghê tởm nhất trong Cải
Cách Ruộng Đất, đó là nhân vật Trường Chinh, đấu tố mẹ
cho đến chết .
Trong tác phẩm Đèn Cù của Trần Đĩnh. Noi gương theo Trường Chinh, là Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh. Bắc ghế ngồi trên thềm cao, y chỉ tay vào mặt mẹ đẻ, chắp tay đứng dưới sân, gằn giọng:
Trong tác phẩm Đèn Cù của Trần Đĩnh. Noi gương theo Trường Chinh, là Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh. Bắc ghế ngồi trên thềm cao, y chỉ tay vào mặt mẹ đẻ, chắp tay đứng dưới sân, gằn giọng:
-
“Tao với
mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau”.
Thực chất cuộc Cải Cách Ruộng Đất là tiêu diệt
gia cấp, để hình thánh một giai
cấp thống trị đó là (đảng viên cộng sản). Cái
đau lớn nhất cho dân tộc Việt Nam, qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất, là sự đảo lộn nền
văn hóa, truyền thống của Việt Nam, tôn sư trọng đạo, thờ cúng Tổ Tiên, Cha Mẹ.
Để thực hiện chủ thuyết, vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc. Đem sự dối trá,
tàn ác, thay thế đạo lý, luân thường.
Nhớ
lại câu nói như một lời tiên tri, của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
-
“Nếu bọn
Việt Cộng thắng thì quốc gia Việt Nam, sẽ bị tiêu diệt và sẽ biến thành
một tỉnh nhỏ của Trung Hoa Cộng Sản. Hơn nữa
toàn dân sẽ phải sống mãi dưới ách, độc tài của một bọn vong bản. Vô gia đình,
vô tổ quốc, vô tôn giáo.”
Ngày Tết sắp đến, đời sống của anh em tù trong trại 4, dường như
vui hơn, vì không khí của những ngày gần Tết. Ban chỉ huy trại cho thành lập
ban văn nghệ, tuyển chọn một số anh em có khả năng, đàn, hát, tôi không nhớ tên
các anh trong ban văn nghệ. riêng tôi cũng được chọn trong ban văn nghệ, giúp
vui ngày Tết, vì tôi có mang theo một cây khẩu cầm Harmonica của Đức (Comet),
đôi lúc lấy ra thổi kèn chơi.
Tiếng kèn của tôi cũng khá hay, do đó cán bộ trại đã chọn tôi
vào ban văn nghệ. Anh em chúng tôi lại được dịp tập văn nghệ, vào thời điểm này
(nhạc vàng bị cấm), dĩ nhiên là phải hát những ca khúc của họ. Như bài “Trường
Sơn đông Trường Sơn tây” lời bài hát này còn mang một chút tình tự lãng mạng,
không nặng mùi cách mạng, tôn thờ lãnh tụ.
Tôi thích vài câu trong
bài hát này
“Anh lên xe, trời
đổ cơn mưa
Cái gạt nước xóa tan nỗi
nhớ
Em xuống núi, nắng về rực
rỡ
Cái nhành cây, gạt mối
riêng tư”
Cán
bộ trại đến xem chúng tôi tập văn nghrệ, họ sẽ duyệt
xét,
cho phép trình diễn những ca khúc nào. Tôi được cho phép thổi kẻn hai ca khúc,
Vườn xuân con bướm và bài Trường sơn đông, trường sơn tây. Tôi còn nhớ anh em tù
đã lấy nhạc Mỹ, cán bộ hỏi nhạc gì, mọi người trả lời nhạc Liên Xô là họ cho
phép ngay.
Như
bài hát “Cánh Đồng Xanh” (The Green Fields).
Trại
tù số 4, dưới sự quản lý của bộ đội Đoàn 76, dù sao họ cũng là người lính, mặc
dù khác chiến tuyến, họ vẫn còn một chút cảm thông với người lính thua cuộc, do
đó họ vẫn có một chút phóng khoáng trong sinh hoạt đời lính.
Ban
chỉ huy trại đã tổ chức một buổi diễn văn nghệ, vào buổi chiều để đón mừng năm
mới. Họ cho mời dân chúng địa phương đến tham dự, đây cũng là dịp may cho các
anh chàng bộ đội, độc thân rủ rê các em gái (sơn nữ) đến xem, và biết đâu đó
torng lần hẹn hò, lại nẩy sinh tình cảm, rồi nên duyên vợ chồng.
Trong
buổi trình diễn văn nghệ, anh em tù chúng tôi được hoan nghênh, vỗ tay tán thưởng.
Một buổi trình diễn văn nghệ, rất mộc mạc đơn sơ, kéo dài đến tối, dưới ánh đèn
măng xông thắp sáng bằng dầu hỏa.
Buổi
văn nghê do anh em tù trình diễn, nó như hạt giống của tình tự quê hương, gieo
vào lòng người dân địa phương, và ngay cả người coi tù, hạt giống này sẽ nẩy mầm,
phá tan đi những tuyên truyền lệch lạc về những người chiến sĩ QLVNCH.
Người
dân sẽ nhận biết về anh em chúng tôi, không như đảng đã tuyên truyền, ngụy quân
là những kẻ ăn gan, uống máu người. Mà ngược lại chính anh em chúng tôi, mới là
những người đem đến nơi tăm tối này, ánh sáng của một nền văn hóa tốt đẹp, tự
do và yêu chuộng hòa bình.
Ngày
Tết cũng là ngày vui nhất của anh em tù, vì chúng tôi được nghỉ lao động, ở
trong trại ngồi tán dóc với nhau, đun nước pha trà, hút thuốc lào bằng những ống
tre tự chế. Ngoài ra còn có bữa cơm với chút thịt heo, hay thịt trâu, thật ra
cũng chỉ toàn da còn thịt thì tan biến đâu mất, đặc biệt ngày Tết cũng có bánh
trưng do anh em tù gói.
Không
khí ngày Tết càng làm cho anh em thêm nhớ nhà, nhớ những ngày tháng đã qua, nhớ
về Sài Gòn thân yêu. Anh em chúng tôi tụ họp lại thành ban văn nghệ nhỏ, ngồi
hát cho nhau nghe những ca khúc (Nhạc vàng) thật hay, có một ca khúc kinh điển
về ngày xuân, đó là ca khúc (Ly rượu mừng) của nhạc sĩ Phạm Đình Chương
Có
một đoạn nhạc, mà lời ca gây xúc động lòng người, nó gây tác động mạnh đến hoàn
cảnh tù tội, như anh em chúng tôi. Bài hát được anh em chúng tôi hát vang, làm cho
những bộ đội canh tù cũng bùi ngùi xúc động, vì chính họ cũng đang xa gia đình
như chúng tôi. Âm vang của lời bài hát
“Từ nơi xa xa, có bà Mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương”.
Đây
cũng là mùa xuân đầu tiên của người tù trên đất bắc,
khiến lòng tôi bâng khuâng,
chợt nhớ đến ca khúc (Mùa xuân đầu tiên) của Nhạc Sĩ Văn Cao viết theo điệu
Van.
“Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
Với khói bay trên sông, gà đang gáy
trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh
mông”
Tôi
xin mạn phép nhạc sĩ Văn Cao, đổi lời bài hát này
cho đúng với thân phận người
tù binh chiến tranh, đang bị lưu đầy, như chúng tôi hôm nay.
“ Giờ người tù ngồi đây xem én về
Trời mịt mù, đường xưa xa lối về
Mùa xuân mơ ước ấy, nay có về đâu
Với nhớ mong yêu thương, về nơi chốn
xưa yêu thương
Một tia nắng vui, hôm nay mênh
mông.”
Những
ngày Tết rồi cũng qua đi, bước sang năm mới
1978.
Công việc bình thường của người tù lại tiếp diễn, mỗi buổi sáng thức dậy, tiếp
tục đi lao động.
Khoảng
vài tháng sau, anh em chúng tôi được dẫn đi lao động thật xa, vào khoảng 10 cây
số, đi và về, tại nơi đây có một rừng khoai mì (cây sắn), có những gốc khoai mì
cổ thụ, thân gốc rất to.
Cán
bộ ra lệnh cho chúng tôi chặt những cây khoai mì này bó thành tửng bó, gọi là
cây (hom khoai mì), đem về trại trồng, trên những ngọn đồi quanh trại. Công việc
này cũng đem đến cho anh em tù niềm vui, vì đào được những củ khoai mì thật to,
đem luộc ăn rất ngon, có anh vì quá đói, đào khoai mì lên, lột vỏ ăn sống, ngọt
như ăn củ đậu.
Đợt
lao động này tuy đi xa nhưng bù lại anh em chúng tôi kiếm thêm một ít khoai mì
đem về nấu nướng, nhờ vậy mà sức khỏe anh em tù cũng khá hơn trước.
Cán
bộ trại 4, ra lệnh cho anh em chúng tôi lên những ngọn đồi hay sườn núi, chung
quanh trại, quốc hết cỏ dại, đào lỗ trồng những cây hom khoai mì.
Cán bộ nói
-
Các anh phải biến nơi đây thành một rừng
khoai sắn,
Về
sau này chúng tôi mới biết, những đơn vị bộ đội đang chuẩn bị một khu vực cứu
đói, trong tình trạng chiến tranh xẩy ra. Có nhiều nguồn tin về người anh em
Trung Cộng đang tạo áp lực với cộng sản Việt Nam, về những bất đồng sau chiến
tranh và cuộc chiến tranh với Khơ Me Đỏ tại Campuchia. Bắt đầu từ tháng 12 năm
1978 đến tháng 1 năm 1979, Việt Nam đã đem quân đánh chiếm Khơ Me Đỏ.
Cũng
chính vì tình hình chính trị có nhiều chuyển biến phức tạp vào thời điểm này.
Trại tù số 4 đã ra lệnh chuyển trại. Lần này là chuyển trại thật sự không như lần
trước, chỉ là một chiêu thức (Dương đông kích tây) nhầm mục đích lục xoát đồ đạc
của người tù.
Riêng
lần này một đoàn quân bộ đội đã đến trại, ra lệnh tập trung, họ dẫn chúng tôi
đi bộ, ra khỏi khu vực trại, đến nơi có dường lưu thông. Tại đây có một đòan xe
Molotova đợi sẵn, và anh em chúng tôi lên xe, chuyển trại về trại 9 Liên Trại
Yên Bái.
Trại
9 có một địa danh gọi là đèo (Bá Thở), một ngọn đèo rất cao nằm cạnh khu vực trại
9, mỗi lần anh em chúng tôi đi lao động phải leo lên ngọn đèo này, ai nấy đều
bá thở, le lưỡi, vì độ dốc gần như thẳng đứng, do đó anh em tù đặt tên là đèo
(Bá Thở)
Nhân
tiện cũng xin nói sơ qua về Yên Bái. Tỉnh lỵ này nằm ở vùng Tây Bắc, phía đông
bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía
tây nam giáp Sơn La. Phía tây bắc giáp lai Châu và Lào Cai. Thành phố Yên Bái
cách Hà Nội 180 km.
Năm
1960 Liên Xô đã giúp thiết kế Hồ Thác Bà, đây là hồ chứa nước lớn nhất, có một
phong cảnh rất đẹp, vì khu vực Hồ Thác Bà có tất cả 1,300 hòn đảo lớn nhỏ. Nơi
đây đã trở thành nhà máy thủy điện Thác Bà lớn nhất miền bắc Việt Nam.
Nhiều
lần anh em tù chúng tôi đến khu vực Hồ Thác Bà, phong cảnh nơi đây thật đẹp,
trông như một Vịnh Hạ Long thu nhỏ, một vùng trời, mây nước mênh mông, sen kẽ
những hòn đảo lớn, nhỏ, với rừng lá xanh tươi.
Thế
nhưng:
“người buồn thì cảnh có
vui đâu bao giờ”
Dường
như tâm hồn lãng mạn của người tù đã bị trai đá,
anh
em chúng tôi đã mất đi cảm giác, để mà thi vị hóa cảnh vật, chúng tôi những người
tù binh chiến tranh, đang bị dày vò vì cái đói, cái rét buốt, và nỗi buồn thế kỷ,
là một nạn nhân của sự trả thù, do bên thắng cuộc áp đặt. Chúng tôi đã hóa thân
thành loài vượn cổ xưa, ngắm bóng mình dưới mặt hồ nước trong xanh, mà ngơ ngác
nhận không ra.
Trên mặt hồ, tôi nhận thấy có một chiếc
thuyền nan nhỏ bé, với mái che bằng lá, và những tấm bạt áo mưa rách nát, ở
trên thuyền là hai vợ chồng già (đã ngoái 70), trong khoang có một ngọn đèn dầu
leo loét, tỏa ánh sáng màu vàng úa, ông cụ già đứng trước mũi thuyền đang tung
mảnh lưới nhỏ bắt cá, người vợ thì lom khom mò cua bắt ốc. Một cuộc sống, nói
đúng hơn là một mảnh đời, thật đơn sơ, buồn tẻ, tự kiếm lấy miếng ăn, không
nhà, không cửa, nơi cư trú, chính là cái thuyền nan nhỏ bé, thả trôi trên mặt hồ
Thác Bà.
Sau này có dịp đến gần hai vợ chồng
già, tôi lân la hỏi thăm, ông cụ cho biết
-
Vợ chồng tôi cũng là một nạn nhân của Cải
Cách Ruộng Đất
-
Nói xong câu nói ấy, ông cụ vội bỏ đi, để
tránh cái nhìn của tay bộ đội coi tù.
Tôi
hiểu ngụ ý của ông, mọi người dân sống trong một
chế
độ, độc tài đảng trị, luôn luôn bị theo dõi. Bỗng dưng tim tôi lại nhói đau,
thương cho thân phận một kiếp người, đã sinh lầm thế kỷ
Ông cụ lững thững bước đi, lõm bõm dưới
mặt nước hồ lạnh buốt, ông đi về chiếc thuyền nan, nơi người vợ già bé nhỏ đang
đợi ông. Tôi chợt nhân ra, trên con thuyền nan nhỏ bé ấy, đang tỏa sáng một ánh
hào quang rực rỡ, của một tình yêu thật vĩ đại, nó lỗng lẫy và cao sang, hơn cả
những lầu đài, những dinh thự tráng lệ, của những kẻ đang cầm quyền.
Tôi
liên tưởng đến nhà thơ Hữu Loan qua bài thơ (Màu tím hoa sim). Hữu Loan từ một
người trí thức, ông có tú tài Pháp năm 1941, ông theo kháng chiến chống Pháp.
Ông bỏ ngũ vì lòng tự trọng của một con người trí thức, ông đã can đảm, giám cưới
người vợ, mà người thiếu nữ này đang bị chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” trù dập.
Hữu Loan đã viết bài tham gia các tạp
chí “Nhân Văn” và “Đất Mới”.
Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của
ông bị lên án, tư sản, ủy mị. Ông bị quản thúc tại quê nhà, và cấm không được
liên hệ với ai. Nhà thơ Hữu Loan bị đầy đọa, xuống thành một kẻ đi đánh giậm, kiếm vài con tôm con tép; đục đá, thồ về, đổi lấy ngô khoai
để sống còn, mà vẫn bị gây cản trở, và luôn bị theo dõi.
Từ hình ảnh đôi vợ chồng già
sống cô quạnh trên con thuyền nan, tôi liên tưởng đến nhà thơ của (màu tím hoa
sim), cả hai mảnh đời đều bi thương giống nhau.
Âm vang của bài thơ (Màu tím
hoa sim), như nhuộm tím cả tâm hồn tôi, và tâm hồn anh em chúng tôi, những nạn
nhân của một chế độ “không thuộc về thế giới loài người”
-
“Chiều
hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím, tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa.”
Chiều hoang tím, tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa.”
Liên trại Yên Bái, là một
sâu chuỗi dài với những trại tù được đánh số từ 1 đến 9. Trại 9 là trại tù mà
anh em chúng tôi mới chuyển đến. Nhìn chung trại 9, nằm ở vị trí thuận tiện hơn
trại 4 Huyện Văn Chấn, trước cổng trại là một con đường đất đỏ, người dân địa
phương qua lại, trại 9 vẫn nằm dưới sự quản lý của Bộ Đội.
Trại trưởng là Thượng Úy
Nguyễn Giáp Giá, quê Hà Đông, mặc dù trên cương vị là trại trưởng, đang quản lý
những người tù, nhưng Thượng Úy Giáp lại có một phong cách khác hẳn với những
người cộng sản, từ nơi ông chúng tôi đã nhận thấy một con người, mang tính chất
nhân bản, có tình người. Có lẽ Thượng Úy Giáp là người cộng sản, dễ mến nhất,
ông xem chúng tôi như một người lính (đã buông rơi súng trận) không phải là
người tù cải tạo.
Chính ông đã ra lệnh cho
ban chỉ huy trại, phải phân phát đầy đủ nhu yếu phẩm cho anh em chúng tôi, như
một chút đường, một chút kẹo, thuốc lào vân.. vân. Mà những tiêu chuẩn này cũng
ngang bằng người lính bộ đội. Anh em chúng tôi đã nợ ông, một món nợ ân tình,
mà không có cách nào trả lại.
Anh em chúng tôi, đa số là
những người trẻ, cấp bặc cũng nhỏ, chúng tôi tập chung hết tại đội 1, đây là
đội lì lợm nhất trại. Cán bộ quản giáo đội 1, là Thiếu úy bộ đội Lê Xuân Hòe,
anh em tù đặt cho biệt danh là (Quách Hòe).
Quách Hòe luôn bắt anh
em chúng tôi phải tự đấu tố lẫn nhau, sau những ngày lao động mệt mỏi, buổi tối
trong phòng, dưới ngọn đèn dầu leo lóet sáng, Quách Hòe bắt anh em chúng tôi
ngồi, kiểm điểm tố cáo lẫn nhau.
-
Quách Hòe nói
-
Các anh phải nêu ra những cái không tốt của người khác, để dìu
dắt nhau, cùng nhau tiến bộ, học tập tốt, sớm về với gia đình.
Một hình thức đấu tố, đôi
khi tự dựng chuyện lên để tố cáo, nhầm mục đích kiếm điểm, được nâng mức phần
ăn cao hơn. Anh em chúng tôi thường ngồi im lặng, thỉnh thoảng có anh ngồi
nghiêng mông đánh rắm thật to, thế là cả đám cười ầm lên, Quách Hòe tức lắm
nhưng không biết làm gì, chỉ còn cách đe dọa rút bớt tiêu chuẩn phần ăn từ 15
ký một tháng xuống còn 12 ký, thế nhưng anh em chúng tôi cũng không sợ.
Một hôm đang lúc ngồi họp
kiểm điểm, phê bình công tác, với sự quan sát của Quách Hòe, bỗng dưng có tiếng
đánh rắm thật to vang lên, mọi người cười ầm lên.
-
Quách Hòe nghe tiếng đánh rắm to, thì tức lắm, mới lên tiếng hỏi
-
Anh nào vừa đánh rắm giơ tay lên.
-
Có người dơ tay lên, anh em quay lại nhìn thì ra Nguyễn Văn Thế
(dân quận Tư Sài Gòn)
-
Quách Hòe hỏi. Tại sao anh làm như thế, cán bộ định dảng bài lịch
sự, thí anh Thế đã nhanh miệng trả lời trước
-
Cán bộ nghĩ coi, chúng tôi ăn toàn khoai mì, khoai lang, không
đánh (địt) sao được, người miền nam chính thống phát âm chữ địt, làm cả đám
cưới ầm lên, ngay cả Quách Hòe cũng cưới, thế là huề.
Cũng chuyện đánh rắm,
nhiều lần khi lên lớp (lên hội trường nghe cán bộ nói) Các anh báo cáo thì bé,
mà đánh rắm thì to. Anh em chúng tôi cười ầm lên. Theo quy định của trại, ban
đêm ra khỏi phòng đi đái, phải hô to;
-
Báo cáo cán bộ tôi đi đái
-
Tuy nhiên có nhiều anh em còn ngái ngủ, báo cáo nhỏ quá, mà vừa đi
vừa đánh rắm (bắn la phan) bụp bịt lung tung.
Cách thức cộng sản làm
việc, là nắm chặt bao tử con người để cai trị. Như tôi đã viết ở phần đầu câu
chuyện. Đặc chưng của xã hội chủ nghĩa, là tiếng kẻng, cái bát và đôi đũa. Bất
cứ nơi đâu cũng có tiếng kẻng, để mọi người tập trung, đi lao động, mà đảng gọi
là “vinh quang”, sự vinh quang này đảng dành cho dân, còn cán bộ đảng viên thì
(ngồi mát, ăn bát vàng). Riêng cái bát, là để chia phần, đảng sẽ chấm công chia
phần theo tiêu chuẩn, và người dân cũng sẽ bị đe dọa, bớt khẩu phần ăn, như
quản gíao Quách Hòe, bớt tiêu chuẩn gạo của chúng tôi.
Có một chi tiết mà tôi
quên viết ra ngay từ đầu câu chuyện đó là. Những ngày đầu khi đến miền bắc xã hội
chủ nghĩa, tôi rất ngạc nhiên, tại sao những con trâu, con bò, ở đây đa số đều
sứt mũi, sơi dây thừng sỏ mũi, được kéo ngược lên buộc vào sừng, lâu ngày tạo
thành vết loét, hằn sâu vào phía đầu, trông rất đáng thương. Những con vật hiền
lành, là người bạn cần cù, đã giúp người nông dân làm biết bao công việc đồng áng,
nặng nhọc, vậy mà bị đối sử một cách quá ư tàn nhẫn.
Về sau này tôi mới hiểu,
bởi vì con trâu, con bò, là tài sản của hợp tác xã quản lý, không phải là tài
sản riêng của người dân, với quan niệm
-
Cha chung không ai khóc.
Do đó người dân không cần
quan tâm, nếu trâu bò, không chịu đi thì kéo thật mạnh, đó chính là nguyên
nhân, khiến đa số trâu bò bị sứt mũi, hơn nữa có một thực tế, rất phũ phàng, vì
làm như thế, con trâu, con bò, sẽ mau chết, để được sẻ thịt chia phần.
Trở về với câu chuyện của
đội 1, trại 9, đa số là anh em trẻ, mọi sinh hoạt còn nhanh nhẹn, chúng tôi chỉ
im lặng trước mũi súng của người coi tù, nhưng sau lưng họ, chúng tôi không sợ,
anh em tù vẫn lén lút bắt gà của cán bộ trại nuôi, làm thịt nhét vào lon giugoz
nấu chin, chia nhau ăn.
Trong nhóm của tôi có
Nguyễn Văn Thế, Nguyễn Văn Quý, Lê Anh Thượng, cùng với Đại Úy Sâm đội 2, anh
Sâm có tài bắn (ná thung) bách phát bách trúng, dây thung chính là quai dép
râu, tháo ra làm (ná thung) bắn gà, sau đó lại gắn vào dép râu, nếu lỡ bị khám
sét bất ngờ, thì không có bằng chứng.
Anh Sâm nhắm con gà trong bụi cây, dương ná
(ná thung) bắn một phát là ngay đầu con gà, chết không kịp kêu, tôi và Nguyễn
Văn Quý, có nhiệm vụ chụp lấy con gà, nhét ngay vào trong áo, đem xuống suối
nhổ lông, và nấu tại chỗ, Nguyễn Văn Thế có nhiệm vụ canh phòng, và mang chiến
lợi phẩm vào trại, thường thì nấu ngay tại bờ suối, và ăn hết. Chúng tôi kết hợp lại mỗi lần đi lao động là
gặp nhau bàn tinh (cải thiện) kiếm ăn thêm, có lần Thế (quận tư) đưa ý kiến làm
thịt một con dê của trại nuôi, chúng tôi ngăn cản, vì làm như vậy sẽ bị lộ
ngay, và sẽ chết dưới mũi súng của bộ đội,
Thiếu úy Nguyễn văn Thế,
một tay chơi dân Quận Tư Sài Gòn, Thế ca vọng cổ rất hay, làn hơi ấm dầy, và
kéo dài (mút mùa Lệ Thủy), anh em chúng tôi thường nghe Thế ca vọng cổ, những
bài vọng cổ như gợi nhớ lại miền Nam thân thương, ngay cả những cán bộ coi tù,
cũng thích nghe.
Thế kể cho tôi nghe rất
nhiều về đời tư của anh.
-
Với chất giọng người miền nam, đôi khi trong câu nói có thêm câu
chửi thề ĐM, nhưng rất chân tình. Thế nói.
-
Tôi có thời gian ngu dại, nghe theo bạn bè, rồi dính vào
con đường nghiện xì ke một
thời gian khá dài, đến khi chợt nhận ra, tôi đã phải tự mình cai nghiện.
-
Thế kể tiếp, ĐM thời gian đó khủng khiếp lắm
Tôi
phải tự trói tay bằng xích sắt, và chói người tôi vào cột nhà, tôi vứt chìa
khóa, qua cửa sổ. Tối nói với Mẹ tôi, con xin Mẹ hãy mặc kệ con, bất cứ con gào
khóc, than van gì đi nữa, cũng không được mua thuốc (xì ke) cho con. Cơn nghiện
nó đã vật vã hành hạ tôi suốt 3 ngày, đái ỉa ra quần, cuối cùng tôi đã từ bỏ được.
Câu chuyện do anh Thế kể lại, cũng đủ nói lên ý chí mạnh
mẽ và cương quyết của Nguyễn Văn Thế, một con người chịu chơi và lì lợm
Ngoài anh Thế ra, đội 1
chúng tôi còn có anh Hứa Sâm, anh là nhân vật rất lì lợm, với ý chí sắt thép,
anh cương quyết không lao động, mặc du bị đe dọa, hay bị bỏ đói. Thiếu Úy Hứa
Sâm người lính Địa Phương Quân, chống cộng đến cùng, không bao giờ chịu hợp
tác, sự chống đối của anh đã kéo dài từ miến Nam ra tận nơi này, dường như nó
đã trở thành quen thuộc, đến nỗi quản giáo cũng mặc kệ, không để ý đến anh.
Bất cứ một nơi chốn nào,
trên con đường lưu đầy tù tội, cũng để lại những đau thương. Khi anh em chúng
tôi chuyển đến trại 9, khoảng 3 tuần sau đó, chúng tôi nghe tin báo rất buồn,
trong trại 9 có người chết.
Người mới từ bỏ cuộc chơi
để trở vế cõi hư vô, đó là một đàn anh Thiếu Sinh Quân với Tôi và Lâm Ngọc
Chiêu, cũng như một số anh em TSQ và đơn vị Nhảy dù, mà tôi không nhớ tên.
Cựu Thiếu Sinh Quân Trung
Tá Nguyễn Văn Vinh. Chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Nhảy Dù, trại Hoàng Hoa
Thám. Trung tá Vinh chết vì kiệt sức. Thân xác anh được đặt nằm trong cỗ quan
tài đơn sơ, không nhang khói, không tiếng khóc thương, không có vành khăn tang
trắng tiễn đưa.
Anh vinh chết như một
người lính tử trận nơi chiến trường, vì khi anh nhắm mắt ra đi, ở chung quanh
anh cũng toàn là những sĩ quan của QLVNCH. Ban chi huy trại chỉ định 4 người
khiêng quan tài đi chôn, trong 4 người đó có Nguyễn Văn Quý, và 3 cựu TSQ đó là
Lâm Ngọc Chiêu, Vòng Nhọc Sầu, và Tôi (CTSQ Lê Tuấn). Nơi anh nằm yên nghỉ,
chính là một góc nhỏ trên đồi Bá Thở, trại 9 Yên Bái.
Có một nỗi buồn từ đâu
đến, mang theo âm hưởng của ca khúc (Người ở lại Charlie) Nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh viết để tưởng nhớ đến cánh dù bung gió Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo. Anh em
chúng tôi ngày hôm nay, xin mượn lời bài hát này để tiễn đưa Trung Tá Nhảy Dù
Nguyễn Văn Vinh.
“Vâng Chính anh là ngôi
sao mới
Một lần này chợt sáng
trưng
Là cánh dù đan bằng tiếc
thương vô cùng. …
Xin một lần thôi, một lần
thôi
Vẫy tay tạ từ Charlie
(Anh Vinh)
Xin một lần nữa, một lần
nữa
Vẫy tay chào buồn anh
đi.”
Đời sống thì vẫn tiếp
diễn, đó chính là lẽ vô thường của vạn vật, thời gian không bao giờ chạy lùi
lại, nó sẽ đi mãi về tương lai, mà người tù thì không có tương lai, phía trước
mặt chỉ là vô định, biết đi về đâu, anh em chúng tôi không còn con đường nào
lựa chọn. Thồi thì cứ quên đi mà sống, tôi quan niệm.
Ở cuối con đường luôn có
một phần thưởng xứng đáng, cho những con người, chân chính, biết chờ đợi.
Sau những buổi lao động
mệt nhọc, cuốc dất, đào ao, cấy lúa, chặt cây, trồng khoai. Buổi tối quay quần
bên chiếc đèn dầu leo loét, chúng tôi thường kể chuyện cho nhau nghe, hay ca
hát những tình khúc thời xưa.
Trong đội chúng tôi có
anh Nguyễn Văn Trọng, Giáo sư Vạn Vật, anh bị cận thị nặng do đó anh mang biệt
danh (Trọng đui).
Xin mở ngoặc nói sơ qua
về Giáo sư Nguyễn Văn Trọng, năm 1984 tôi có đến nhà thăm anh Trọng, vào thời
gian này Anh Trọng đang nuôi chim cút và nuôi gà, trên mảnh đất vườn nhà của
anh tại Gò Vấp. Đến năm 1993 tôi nghe tin Nguyễn Văn Trọng bị bắt, vì có liên
quan đến (Đảng Nhân Dân Việt Nam), bị bắt ngày 15 tháng 12 năm 1993, vì tội
(chống chính quyền cách mạng) như vậy anh Trọng phải vào tù thêm lần thứ 2. Cùng
bị bắt có anh Nguyễn Thanh Vân, từ Mỹ trở về hoạt động, Nguyễn Thanh Vân cũng
là người bạn tù trại 6, sau khi được tha về nhà, Thanh Vân đã vượt biên, định
cư tại Hoa kỳ, Thanh Vân đã trở về Việt Nam, hoạt động trong đảng (Nhân Dân
Việt Nam). Sau này khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi có hỏi thăm, thì được biết Anh Nguyễn
Thanh Vân đang định cư tại miền Nam Cali, riêng anh Trọng vì hoàn cảnh gia
đình, không đi Mỹ vẫn còn ở lại VN.
Anh Trọng có một cây đàn
Guitar tự chế bằng thùng tôn, nhưng âm thanh rất vang, cây đàn này anh mang
theo từ khi ở trại tù An Dưỡng Biên Hòa, và nó theo anh cho đến bây giờ, có lẽ
vì hình dáng của nó không đẹp (cây đàn tự chế, gò bằng tôn) do đó không bị tịch
thu, nhờ có tiếng đàn này, làm cho tiếng hát của những người tù hay hơn và vang
xa hơn.
Những tiếng hát của người
tù, phải nhắc đến là. Trung Úy Quân cảnh tư pháp Nguyễn Văn Huệ, biệt danh
(Cathy Huệ) anh là con trai của Cựu TSQ Trung Tá Nguyễn Văn Đầy. Biệt Khu Thủ
Đô. Tiếng hát của anh Huệ rất trầm ấm, và những ca khúc do anh trình bày là
những ca khúc chữ tình, thật lãng mạn. Không riêng gì Cathy Huệ, có nhiều anh
em đàn hát rất hay.
Ngoài những buổi văn nghệ
bỏ túi, còn có anh kể chuyện thật hấp dẫn, có một trí nhớ thật tuyệt vời, kể
lại những câu chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, Anh Hùng Xạ Điệu, Cô Gái Đồ Long, rất
hấp dẫn. Trong số người kể chuyện thật hay, phải nhắc đến Đại Úy Long, đơn vị
101 Quân Báo. Mỗi buổi tối Anh Long ngồi giữa láng, kể
chuyện kiếm hiệp, anh kể như người đang cầm quyển truyện trên tay mà đọc, trí
nhơ của anh thật tuyệt vời.
Phải nói rằng, trong số
đông những sĩ quan, đang bị tập trung tù đầy nơi đây, có biết bao nhân tài, họ
đã bị bỏ quên, bị giam cầm trong các trại tập trung của cộng sản. Một trong số
người đang ở cùng đội 1 với chúng tôi đó là.
Thiếu úy Tiến sĩ Nguyễn
Quốc Lập, tốt nghiệp luật khoa tại trường đại học Hoàng Gia Úc (Autralia).
Nguyễn Quốc Lập là giáo sư dậy môn Công Pháp Quốc Tế tại trường Võ Bị Đà Lạt,
cùng thời với Nguyễn Ngọc Trụ, người đã bị sử bắn tại trại tù Trung Tâm An
Dưỡng Biên Hóa (Trong câu chuyện Người Tù và cái lon Guigoz, tôi đã nhắc đến
tên anh).
Nguyễn Quốc Lập, con
người điềm đạm, ít nói, tướng anh cao và gầy, lúc nào cũng đeo cặp kính cận,
loại tròng mắt có hình chữ nhật, thật nhỏ, trông anh như một trí thức, thư
sinh, có lẽ vì cặp kính cận, đôi tròng kính hình chữ nhật, quá nhỏ so với gương
mặt, khiến cho gương mặt anh thoáng có nét cao ngạo, bất cần đời. Chính vì điểm này
đã làm anh xém chết trong một lần đi lao động.
Hôm đó anh em trong đội
1, phải đi đốn gỗ làm củi đốt. Một người vệ binh bộ đội, cấp bậc binh nhì, với
khẩu súng AK47, dẫn đội đi lao động, phải leo qua dốc Bá Thở, qua phìa sườn núi
bên kia, nơi đây có một khoảng sườn núi bị cháy rừng thiêu rụi, những thân cây
đổ, cháy đen nằm ngổn ngang, trông như một khu rừng vừa bị bom tàn phá.
Anh em tù phải lên sườn
dốc đó, chặt củi gom thành từng bó, có những thân cây cháy nám rất to, với con
dao, rựa loại nhỏ, chặt hàng trăm nhát rựa cũng chưa đứt, công việc khá nặng
nhọc.
Đến xế chiều, bầu trời
hơi âm u, một khung cảnh hoang tàn, đen đúa vì bụi than, anh Lập mệt mỏi cầm
dao chặt, cặp kính cận của anh rơi xệ xuống mũi, anh lấy vạt áo chùi kính rồi
đeo lên, cứ thế diễn tiến, tay vệ binh
đứng gần đó ngứa mắt, hắn quát.
-
Cái anh kia có lao động không, tháo kính ra mà làm
-
Anh Lập trả lời, tháo kính ra tôi không nhìn thấy
-
Vê binh nói.
-
Tôi nhìn anh mà ngứa con mắt
-
Câu chuyện đôi co, qua lại, Nguyễn Quốc Lập lúc đó trên
gương mặt lem luốc vì bụi
than và mồ hôi, hình như ngay lúc đó anh Lập quá chán đời, anh muốn cãi tay đôi
với tay vệ binh coi tù, rồi muốn ra sao thì ra, khiến người vệ binh này quá tức
giận, mặt hắn đỏ bừng lên, và cầm khẩu sung AK 47 lên đạn. như không thể kìm
hãm cơn giận.
Tay
Vệ binh hét lên, mày muốn chết hả, nói vùa dứt câu hắn, chĩa thẳng vào người anh
Lập và bóp cò, hai tiếng nổ chát tai, viên đạn bay thẳng vào phía gần chân anh
Lập, khiến cho bụi than bắn tung lên.
-
Tay Vệ Binh gằn giọng nói tiếp
-
Mày mà lên tiếng nữa tạo sẽ bắn chết tại đây.
-
Anh em chúng tôi cùng lên tiếng năng nỉ tay vệ binh
-
Xin cán bộ bỏ qua, vì anh ấy cận thị nặng, không nhìn
thấy. Chúng tôi cũng
nói Anh Lập hãy nhịn nhục bước qua vị trí khác, đừng đứng trước mặt tên vê
binh.
-
Trên đường về lại trại, tay vê binh có vẻ nguôi ngoai đôi
chút, vì lòng tự ái của
anh ta, đã được vuốt ve bởi những câu nói mà anh em chúng tôi năng nỉ.
-
Vê binh nói
-
Tôi bắn chết một vài người các anh, tôi chỉ làm bản báo
cáo là các anh có hành
vi chống đối cách mạng và trốn trại.
Chúng tôi không dại gì
chống đối một kẻ đang cầm súng trên tay, và hơn nữa không thể nói chuyện với
một người Vệ Binh mà sự hiểu biết luôn bị giới hạn, họ luôn có một thứ mặc cảm
tự ti, rất dễ nổi giận để chứng tỏ một quyền uy.
Tôi nghĩ anh Nguyễn
Quốc Lập cũng hiểu về điều này, nhưng có lẽ trong giây phút nào đó, anh muốn
mượn bàn tay của người Vê Binh để tự kết liễu đời mình, hay chăng, đây chỉ là
sự suy đoán riêng của tôi
Đã có những câu chuyện về người tù, hành động như thế, cố
tình chạy ra khỏi cổng trại để “được” bắn chết, hay bị bắn chết như một hình
thức tự vẫn. Như van xin một lần nằm xuống cho hận thù vào lãng quên.
Những diễn biến tâm lý, của người tù lâu năm, có thể đến
bất chợt, mà ngay lúc đó, ý trí con người không kiểm soát dược, đây cũng là
nguyên nhân dẫn đến một vài trường hợp tự tử trong tù. Muốn thoát khỏi sự khủng
hoảng tâm lý này, người tù phải tự tìm cho
mình một nguồn vui khác, như học nhạc, học đàn, ca hát nghêu ngao, những
ai có tài vặt nào đó thì đem ra thi thố, làm cho quên ngày tháng.
Trong thời gian tại
trại 9, mỗi lần đi lao động bên ngoài trại, tôi thường xuống suối, nhặt những
viên đá màu đen thật đẹp, đem vào trại, lúc rảnh rỗi tôi lấy ra, điêu khắc
nhiều hình ảnh rất đẹp. Chính Anh Lập cũng khen đẹp khi nhìn thấy cục đá đen do
tôi khắc hình trên mặt đá, và tôi cũng tặng anh một viên đá có khắc hình Đức Mẹ
Maria.
Có lần tôi ngồi vẽ một
bức ảnh chân dung của Mẹ tôi, vẽ bằng bút chì trên tấm giấy nhặt được, tôi vẽ
một bức chân dung đen trắng hình ảnh Mẹ tôi.
Một hôm thật tình cờ,
quản giáo Quách Hòe nhìn thấy, và cán bộ Hòe đã nhờ tôi vẽ lại hình Bố Mẹ ông
ấy, với lời hứa sẽ cung cấp giấy và bút chì cho tôi, cộng thêm một gói chè móc
câu và nhúm thuốc lào.
Tôi nhận lời. Quách Hòe
đưa cho tôi 2 tấm hình đen trắng cũ kỹ, và nhỏ cỡ 3 X 4. Mấy ngày liền tôi được
miễn đi lao động, mỗi sáng lên hội trường ngồi, căng mắt ra để vẽ chân dung bố
mẹ, Quách Hòe. Tôi vẽ cũng giống khoảng 90%, vì hình mẫu nhỏ quá, rất khó thấy
hết nét. Quách Hòe cũng thích lắm, ngoài ra tôi có tài điêu khắc, làm những ống
điếu thuốc lào bằng ống tre khá đẹp, nhờ những tài vặt, mà tâm trí tôi cũng bớt
căng thẳng, tạm quên đi những ngày tháng đang tù tội.
Những ngày tháng tù tại
trại số 1 Yên Bái, anh em chúng tôi đã làm một số công trình, lưu lại nơi đây.
Với công sức của những người tù, chúng tôi đã đào hoàn thành, một cái ao nuôi
cá, nằm dựa vào sườn đồi sát bên cạnh con đường đất, diện tích mặt ao khá rộng
lớn, và độ sâu cũng khoảng 2 mét.
Cái ao này được dẫn
nước suối chảy về. Thời gian đào ao cũng rất là vất vả, vị trí cái ao nằm bên
cạnh con đường dân cư qua lại, do đó chúng tôi cũng chứng kiến nhiều cảnh đời
éo le.
Có một câu chuyện diễn
biến rất nhanh, nếu không kịp kềm chế thì xẩy ra chết người. Trong lúc đào ao,
có anh bạn tù (lâu quá quên tên) bắt được một con ếch con, anh lấy cọng cỏ buộc
chặt eo ếch vào một gốc cây, để dành khi về trại có miếng ăn ngon, anh đang cuốc
đất không để ý miếng mồi, bỗng dưng có con gà trống to từ nhà dân, chạy đến mổ
luôn con ếch đang buộc, con gà bỏ chạy, anh em nhìn thấy la lên, anh bạn chủ
nhân con ếch vứt cuốc, phóng một cái ào, đuổi theo con gà, chạy luôn vào nhà
dân. Vệ Binh đứng canh tù nhìn thấy, vội lên đạn cầm AK47 đuổi theo, và hô to.
-
Anh kia đứng lại không tôi bắn. Vệ Binh nói tiếp
-
Ban ngày ban mặt, mà anh giám bắt gà của nhân dân.
-
Chúng tôi vội la lớn, minh oanh cho anh bạn bị mất con ếch. Cán
bộ thông cảm vì anh ấy chỉ muốn chạy theo lấy lại con ếch thôi.
-
Ngưới Vê Binh, cũng hiểu ra câu chuyện
-
Người tù chủ nhân con ếch tí nữa bị hàm oan, vẫn còn tiếc vì mất
con ếch béo.
Cũng
có lần tôi thấy một toán người dân đi rất vội vã, 4 anh đội nón cối, 2 bà khăn gói
tay nải, sách túi chạy theo, họ đang khiêng một người đàn bà mang bầu, nằm trên
võng, họ khiêng như cố chạy đến trạm xá, vì người đàn bà đang đau đẻ, họ vừa chạy
qua chỗ anh em chúng tôi đang lao động một đoạn ngắn, thì cái võng hạ xuống mặt
đường, người đàn bà bị vỡ nước ối, một vũng nước màu hồng chảy trên mặt đường đất,
người đàn bà rên la, đau đớn, 4 người thanh niên lại tiếp tục khiêng như chạy về
hướng trạm xá.
Chúng
tôi không biết người đàn bà đó có sinh nở, mẹ tròn con vuông hay không. Đó cũng
là hoạt cảnh người dân sống trong thiên đường xã hội chủ nghĩa, ở vào thời gian
khi tôi viết câu chuyện này năm 1979.
Một
lúc sau có một đàn bò vài con đi ngang qua vũng nước ối, những con bò liếm sạch
chỗ nước màu hồng, vì mùi tanh, và vị mặn của máu, một hợp chất mà những con bò
đang thèm khát.
Cuộc
sống là thế, mọi sự đều biến chuyển không ngừng, nó đến rồi đi như chưa hề có
chuyện gì xẩy ra.
Cũng
như những diễn biến của lịch sử, có ai nghĩ rằng. Một chính thể Việt Nam Cộng
Hòa, một Quân Lực hùng mạnh nhất nhì Đông Nam Á. Bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi, bị
bức tử, tan rã một cách nhanh như thế.
Cả
thế giới bàng hoàng, những quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ, phải giật mình nhìn lại,
xem thảm họa Miền Nam Việt Nam như một bài học bằng xương máu, của những người
chiến sĩ, một quân đội chiến đấu vì lý tưởng tư do, chống lại cộng sản.
Chiến Tranh Biên Giới 1979
Chiến tranh
biên giới Việt - Trung năm 1979,
là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, nổ ra vào ngày 17 tháng
2 năm 1979, khi Trung Cộng đưa quân tấn
công Việt Nam trên toàn tuyến đường, biên giới phía bắc giữa 2 nước.
Cuộc chiến kết thúc khi Trung
Cộng tuyên bố hoàn thành và rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979.
Sau khi cuộc chiến chính thức chấm dứt, đến năm 1982 thì
căng thẳng trở lại và kéo dài đến năm 1985. Trong đó có trận Lão Sơn tại mặt
trận Hà Giang rất khốc liệt.
Trung Quốc đã chiếm được núi Lão Sơn, cùng một
điểm cao chiến lược khác từ tay Việt Nam.
Trước khi cuộc chiến này nổ ra, hầu như
tất cả các trại giam tù chính trị, nằm rải rác trong khu vực của Đoàn 776 Bộ
Đội, thuộc Huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn, đều di chuyển dần về miền trung
VN, rời xa khỏi biên giơi phía bắc giữa VN và Trung Cộng.
Cuối năm 1978, trại 9 Yên Bái, được lệnh
chuyển trại, tất cả tù cải tạo, lại khăn gói quả mướp lên đường, lần này chúng
tôi nghe đồn rằng chuyển trại về miền Trung, giao cho Tổng Cục 8 Bộ Công An
quản lý.
Toàn trại tập trung trước sân của trại 9
Yên Bái, trại trưởng Nguyễn Giáp Giá và số đông cán bộ trại, có buổi nói chuyện
về nhựng quy định khi chuyển trại. Thượng Úy Giá nói lời chia tay, dường như
trong lần nói chuyện hôm nay, có một chút lưu luyến, vì dù sao đã trải qua một
thời gian sinh sống tại nơi này, những người coi tù, và những người tù, đều là
những người lính, dù cho sự khác biệt giữa hai chiến tuyến khác nhau, nhưng
phong cách của một người lính thì gần như giống nhau.
Trong thời gian anh em chúng tôi bị giam
cầm dưới sự quản lý của Bộ Quốc Phòng, thông qua những đơn vị bộ đội, cánh cửa
phòng giam, không bao giờ khóa, cửa ra vào và cửa sổ đều mở tung, kể cả ban
đêm, anh em chúng tôi có thể ra ngoài vào buổi tối để đi vệ sinh. Tóm lại mặc
dù đang bị tù, nhưng không bị quá khắt khe, như những nhà tù do công an quản
lý.
Một đoàn xe Molotova tập trung, đậu dài
trên con đường đất trước cổng trại, từng đội tù xếp hàng lần lượt lên xe, đoàn
xe từ từ chuyển bánh chạy về hướng bến phà Ô Lâu, chúng tôi đa số là đứng trên
xe, vì quá đông người, chiếc xe Molotova không phủ bạt che kín, những cảnh vật
chạy lướt qua, chúng tôi nhìn lại trại 9 Yên Bái lần cuối, nhìn cón dốc Bá Thở,
mà mọi người khi leo lên, cũng phải dừng lại nghỉ lấy sức, phải lè lưỡi vì Bá
Thở (thở không kịp) vì quá mệt.
Có những sườn đồi bạt ngàn trồng sắn
(cây khoai mì) do công sức của anh em chúng tôi khai phá, để phòng bị chiến
tranh, vì nếu cuộc chiến VN và Trung Cộng xẩy ra ác liệt hơn, thì nơi ấy có thể
là nơi dự chữ lương thực cứu đói.
Có một ao cá do bàn tay
người tù tạo ra, và có những kỷ niệm vui buồn, những tình cảm vừa chớm nở,
trong lòng những người dân sống gần trại 9.
Một hình ảnh thật đau
buồn, chợt lướt qua, đó là những ngôi mộ đất thật đơn sơ, trên bia mộ chỉ là
những nét chữ mộc mạc của người tù, viết trên mảnh gỗ, ghi lại tên những anh em
tù, đã từ bỏ cuộc chơi, nằm yên nghỉ nơi đây.
Trên con đường từ trại
9 Yên Bái, chạy về bến phà Ô Lâu, có những bàn tay người dân vẫy chào tạm biệt
anh em chúng tôi. Đoàn xe qua phà Ô Lâu, chạy về hướng Nghệ An, đi về thánh phố
Vinh, đến huyện Đô Lương.
Từ Đô Lương đi vào trại
tù số 6, phải đi qua bến đò Dùng bắc ngang sông Lam (ngày nay đã xây dựng thành
cầu treo Dùng), chạy qua Quốc Lộ 7A, xe chạy lòng vòng đến đường H.15, trại 6
Thanh Chương nằm trên con đường H.15.
Đôi nét về Thanh
Chương, là một huyện miển núi, nằm phía tây nam tỉnh Nghệ An, phía tây giáp
ranh với Tỉnh (Bolikhamxai) thuộc quốc gia (Lao), phía đông giáp Đô Lương, phía
nam giáp huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nắm cách thánh phố Vinh 45 ky lô mét.
Thanh Chương là một huyện miền núi do đó, đồi núi chiếm 70% diện tích, đa số
dân cư sống dọc theo bờ sông Lam. Đời sống dân cư rất thiếu thốn, nghèo đói.
Người dân sống rất lam lũ đói nghèo, nhất là trong giai đoạn từ thập niên 1975
đến 1995.
Tôi còn nhớ khi đoàn xe
Molotova chở chúng tôi, từ Nghệ Tĩnh, chạy vào Đô Lương, rồi từ đó đi vào Huyện
Thanh Chương, có đôi lần đoàn xe như cố tình dừng lại, ở những nơi tập chung
đông dân, để cho người dân chút căm thù, bằng những hòn đá ném vào chúng tôi,
có vài người dân đến gần hơn, họ nghe chúng tôi nói chuyện và họ nhận ra chúng
tôi là người Việt Nam, những người tù binh chế độ cũ. Họ cho chúng tôi biết,
vậy mà công an xã nói với chúng tôi có đoàn xe chở tù Trung Cộng đi ngang, phải
ra ném đá, hò hét biểu lộ sự căm thù.
Đoàn xe chở tù chạy
trên con đường đất đỏ bụi mù, xe chạy qua những cánh đồng lúa, những đồi trồng
trà (chè), vì nơi đây là một huyện miền núi, những đồi trè bao la trên những
ngọn đồi, nhìn chung người dân vẫn còn lam lũ, nghèo khổ. Có một sự khác biệt
lớn đối với anh em chúng tôi đó là phong thổ và ngôn ngữ, có những từ ngữ địa
phương mà chúng tôi nghe không hiểu họ đang nói gì.
Quanh cảnh chung quanh
nhà tù trại 6, cũng còn hoang vu, đồi núi và những bãi đất rộng trồng rau xanh,
cách không xa là hai ngọn đồi núi đá vôi, sau này hai ngọn đồi là nơi đội 15,
hay đội lò vôi làm việc.
“Hình cổng chính trại giam số 6 Thanh Chương,
Nghệ Tĩnh”
Trại 6 Thanh
Chương.
Đội 15 Lò Vôi. Hay
Đội Đập Đá
Ngày đầu tiên chúng tôi
chuyển trại từ (Bộ Quốc Phòng) Bộ Đội quản lý, đến trại tù do công an quản lý,
một sự khác biệt hoàn toàn. Trại tù số 6 huyện Thanh Chương, là một trại tù quy
mô lớn, nơi đây là trại giam trực thuộc Tổng Cục 8 Bộ Công An. Chu vi quanh
trại tù, những bức tường đá xây cao, có kẽm gai ngăn phía trên, cổng trại tù có
rào ngăn và chòi canh gác rất quy mô, những lực lượng công an, mặc quân phục
màu vàng, đội nón cối cầm AK47, đứng rất đông.
Đoàn xe từng chiếc đi vào
cổng nhà tù, anh em chúng tôi xuống xe tập trung trong sân, nơi có một hội
trường khá rộng.
Chúng tôi được phân ra
thành từng đội, mỗi đội có một quản giáo công an phụ trách, tôi và một số anh
em thân quen, bị chỉ định vào đội 15, là đội Đập Đá (Đội Lò Vôi). Đội trưởng do
anh em tù bầu chọn, là Trung Tá Nguyễn Phú Thọ, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, anh Thọ là
em ruột Phúc Trâu Điên Tiểu đòa 2 TQLC. Anh Thọ một con người trung thực, có tư
cách, anh luôn bệnh vực quyền lợi cho anh em, trước sự ép buộc của công an quản
giáo.
Ngày đầu tiên tại trại,
vào buổi chiều sau khi lãnh phần ăn tối, mỗi người chỉ được một bát cơm, ít rau
khoai lang luộc và một chút nước muối pha loãng, bát cơm nhai đến đâu là sạn
cát tới đó, rất khó nuốt, anh em chúng tôi phải hòa vào lon nước cho cát sạn
lắng xuống, rồi lấy phần cơm nổi trên mặt lon mà ăn.
Sau khi ăn tối xong,
thì có tiếng kẻng vào (chuồng) vào phòng giam, tất cả đội phải tập họp trước
phòng giam, trực trại và cán bộ công an, đứng kiểm tra, từng người đi vào
phòng, người đi đầu đếm số 1, lần lượt đếm số tiếp theo cho đến hết. Một khi
người tù cuối cùng vào hết bên trong, cửa phòng giam sẽ đóng lại và sợi xích
sắt rất to sẽ luồn qua rồi khóa lại.
Từ cửa phòng giam đi
vào trong, ngăn đôi một hành lang nhỏ, hai bên tường là dẫy giường nằm (bệ xi
măng) xây 2 tầng bằng gạch, người nằm tầng trên phải trèo lên bằng những thanh
sắt. Người tù tự chọn chỗ nằm, do đó anh nào nhanh chân thì chọn được chỗ tốt
hơn ở tầng dưới, mỗi người chỉ được 3 gang tay bề ngang, nếu nằm thẳng người
thì hai vai có thể đụng nhau. Mỗi người tù, còn có thêm một ít đồ đạc lỉnh
kỉnh, để trên đầu chỗ nằm, do đó chỗ nằm thêm chật hơn.
Buổi tối những con rệp,
kéo nhau từng đoàn hùng binh, chúng chia nhau tấn công anh em chúng tôi, không
có cách nào tiêu diệt hết lũ rệp, khổ nhất là mùa hè, trời nóng bức, chúng sinh
sôi nẩy nở đông hơn, vào mùa hè anh em chúng tôi thường đem chăn màn quần áo,
cuộn vào cái áo mưa hay bọc ni lông, đem phơi nắng, trước khi đi lao động,
chiều về lấy ra rũ chăn màn, những con rệp rơi xuống, chết hàng loạt vì sức
nóng mặt trời thiêu đốt, phơi nắng bằng cách này cũng chỉ được ngủ yên vài đêm,
rồi cũng bị rệp tấn công.
Sau này ban chỉ huy
trại, có những buổi diệt rệp, bằng cách nấu nước sôi đổ vào những kẽ nứt trên
sạp nằm, chúng tôi gọi là tắm rệp, vì nước sôi không ăn thua, chỉ làm cho chúng
sinh đẻ nhiều hơn.
Vào mùa đông thì khá
hơn, vì trời lạnh những con rệp cũng co rút lại, anh em nằm sát bên nhau cũng
ấm hơn. Mùa đông tại trại 6, thời tiết khá lạnh, có những buổi sáng đi lao
động, chúng tôi thấy mặt nước ao hồ đóng một lớp băng mỏng nước đá, những con
cá chết vì lạnh nổi lên mặt ao.
Nhắc lại câu chuyện lần
đầu bị giam trong phòng. Bởi vì trong suốt thời gian, chúng tôi bị tập trung
dưới sự quản thúc của bộ đội, những cửa phòng giam không bao giờ bị khóa. Sau
gần 3 năm bị tù tập trung cải tạo, đây là lần đầu tiên anh em chúng tôi bị giam
trong phòng giam, và bị khóa kín. Tự nhiên tôi cảm thấy có một nỗi đau, một sự
uất nghẹn cho người tù, tiếng cửa phòng giam đóng ầm một tiếng, tiếng xích sắt kéo
qua khung sắt, và ổ khóa đóng lại, lòng tôi đau thắt, vì sự cảm nhận về tự do
đã bị cướp mất, chúng tôi chính thức trở thành người tù không bản án.
Thế nhưng không lâu
sau, nỗi đau tưởng chừng như không bao giờ phai mờ, khi mỗi lần cánh cửa phòng
giam đóng kín, nó lại là giây phút thoải mái cho anh em chúng tôi, thật là một
sự nghịch lý khó diễn tả.
Sau này tôi đã nghiệm
ra, hạnh phúc không phải là điều khó định nghĩa, hạnh phúc không xuất phát từ
nơi cao sang, nơi nhung lụa, mà hạnh phúc sẽ hiện diện ở khắp nơi, ngay chính
trong sự đau khổ, vẫn có nguồn hạnh phúc đang ẩn dấu.
Thời gian đầu, khi cánh
cửa phòng giam đóng lại, tôi cảm thấy đau khổ, nhưng chỉ một thời gian sau đó,
mỗi lần phòng giam đóng lại, anh em chúng tôi cảm thấy vui, vì chúng tôi được
nghỉ ngơi, đước lén lút nấu lon guigoz nước pha trà, ngồi quây quần bên nhau,
kể chuyện, hay đàn hát những bài tình ca cho nhau nghe.
Sự nghịch lý để định
nghĩa hạnh phúc, đã có lời giải thích, vì từ trong đau khổ chúng tôi đã tìm
thấy nguồn hạnh phúc.
Hạnh phúc ở mọi nơi,
chỉ khi nào chúng ta mở tung cánh cửa của sự đau khổ, sầu muộn, chúng ta sẽ
nhận ra một luồng ánh sáng của hạnh phúc soi rọi vào.
Suy nghĩ này có phải là
một triết lý, cho những nhà tu hành, hay những triết gia đi tìm một định nghĩa
cho Hạnh Phúc.
Có lẽ đội lò vôi, hay
đội đập đá, là khổ nhất trại 6, bởi vì chúng tôi không có thứ gì để kiếm ăn
thêm, như đội rau xanh, trồng khoai, anh em tù đôi khi có thêm củ khoai, cọng
rau, để nấu nướng. Đội lò vôi chỉ có toàn đá xanh, ngoài ra không có gì. Tuy
nhiên phía sau đội lò vôi, có một vườn cam xanh tươi, được rào chắn rất kỹ,
chính vườn cam này lại trở thành một khu vực được anh em tù để ý nhiều nhất,
thường lén lút chui qua hàng rào hái trộm một vài quả cám.
Trong khu lò vôi có một
nhà kho để dụng cụ, bên cạnh là một cái giếng nước rất trong, đây là nguồn nước
tinh khiết nhất của trại tù số 6, hơn nữa chung quanh lò vôi là nơi sát trùng
tốt nhất, lợi thế của anh em lò vôi là được uống và tắm nước sạch từ cái giếng
này, không phải tắm chung ở cái ao của trại, mà trâu bò xuống nằm ngâm nước,
rồi ỉa đái, đầy xuống ao, chính cái ao này là nguồn nước, chảy vào cái giếng
của nhà bếp trong trại. Nguồn nước dùng để nấu cơm và nước uống cho tù nhân.
Vị trí đội chúng tôi
làm việc là hai ngọn núi đá vôi khổng lồ, vách đá dựng đứng trước mặt. Dưới sự
giám sát của công an coi tù, mỗi ngày có một toán nổ mìn, khoan lỗ, đặt những
thỏi thuốc nổ TNT, cho nổ tung các phiến đá, từ trên cao đổ xuống, anh em chúng
tôi có nhiệm vụ, đập nhỏ ra, rồi khiêng về lò vôi, xếp thánh từng lớp đá trong
lò, đến khi đầy thì đốt lò, nung trong vòng mấy ngày, cho đến khi đá xanh, hóa
thành vôi trắng, dùng cho việc xây dựng.
Lò vôi được xây bằng
lọai gạch nung chịu lửa, xây theo hình tròn cao khoảng 5 thước, quanh miệng lò
có cầu thang đi lên, để có thể kiểm xoát được ngọn lửa trên miệng lò, anh em
chúng tôi thường leo lên đặt nhờ những lon guigoz đun nước uống, nhất là mùa
đông lên trên này đứng cho ấm.
Những ngày tháng tại
trại 6, cái đói và sự thiếu thốn tận cùng đã hành hạ anh em chúng tôi, số người
chết do kiết lỵ, và bệnh hoạn tăng dần.
Sau này trại giam đã
cho phép chúng tôi viết thư về nhà xin tiếp tế, cứ 3 hay 4 tháng, trại tù cho
gửi qùa một lần, mỗi gói khoảng 1 hay 2 ký lô, nhờ vậy mà anh em chúng tôi sống
sót.
Chúng tôi là những kẻ
khốn cùng, nhưng nhìn chung vẫn đỡ hơn tù hình sự, một số người tù hình sự,
thân hình gầy đét, trông như những bộ xương chuyển động, mỗi sáng đi lao động,
chúng tôi nhìn thấy họ đứng phơi nắng, thật thê thảm, ở trại có trồng một hàng
cây hoa ở bên vệ tường, nhưng bất cứ trồi non nào lú ra cũng bị người tù hình
sự ăn hết.
Nếu kể hết về nạn đói
trong tù thì không có bút mực nào tả hết được, bây giờ tôi mới hiểu hết ý nghĩa
của câu nói (no dồn, đói góp) đói góp là cái đói nối tiếp từ ngày này qua tháng
khác, nó như một loại (lãi mẹ, đẻ lãi con), khiến cho con nợ không có khả năng
trả nợ.
Hầu như ngày nào cũng
có tù nhân hình sư chết. Anh em tù chúng tôi, tuy đói rách nhưng vẫn còn giúp
nhau vượt qua.
Khi hỏi người tù, sẽ ước muốn điều gì
khi được thả ra, một người tù nói rằng, anh ta chỉ muốn một rổ đầy khoai mì để
ăn, cho đã đời trong khi ngồi trên xe lửa về miền Nam. Ước mơ của người tù thật
đơn sơ, chỉ là một rổ khoai lang hay khoai mì vậy thôi.
Có thể nói đây cũng là đặc trưng của
chế độ cộng sản, là tiếng kẻng, cái bát và đôi đũa. Tiếng kẻn là sự phân công
từ tập thể, cái bát là sự chấm công, chia phần ăn từ tập thể, chì có đôi đũa là
riêng tư và vào mồm.
Khi viết đến đây, tôi chợt nhớ đến
tác phẩm (Quần Đảo Gulag), tạm dịch là Quần Đảo Ngục Tù, Gulag là chữ tắt của Glavnoye upravleniye lagereiy,
có nghĩa là "Cơ quan điều hành các trại cải tạo lao động" (Chief
administration of Corrective Labour Camps). Từ ngữ này đồng dạng với Tổng Cục 8
Quản Lý Trại Giam thuộc Bộ Nội Vụ, do Công An quản lý, một hệ thống nhà tù trên
khắp lãnh thổ Việt Nam.
Tác
phẩm này được nhà văn người Nga (Aleksandr Solzhenitsyn) viết và phổ biến năm
1968 tại Phương Tây. Đây là tác phẩm, lần đầu tiên mô tả về hệ thống cải tạo
bắt buộc, của chế dộ Liên Xô dưới thời Josef Stalin. Quần Đảo Gulag đã đoạt
giải Nobel văn chương.
Chỉ sau khi Liên
Xô sụp đổ, nhân loại mới được biết một con số khủng khiếp: kể từ năm 1929 đến
năm 1953 đã có cả thảy 18 triệu công dân Xô-viết từng phải sống, và phải chết,
trong hệ thống trại giam GULAG.
Tôi
nghĩ sau khi cộng sản VN sụp đổ, những bí mật trại giam sẽ công bố, và con số
người phải sống và chết rong trại tập trung, cũng lên vài chục triệu người.
Nhà văn Solzhgenitsyn nhận định như sau:.
“Những người tù được
tha không hiểu sao rất tránh né những câu hỏi tò mò. Thì ra được trở về rồi họ
vẫn chưa hết sợ. Chế độ xô-viết vẫn còn đấy, và họ vẫn còn phải tiếp tục sống
trong lòng nó.”
Cũng như tại Việt Nam, khi chế độ cộng sản đang còn đó, những
sự thật vẫn cón bị bưng bít, vì nỗi sợ, người dân còn phải sống trong lòng nó.
Quần Đảo Ngục Tù, rất gần gũi, những câu chuyện viết về trại
cải tạo, tại Việt Nam, bởi vì hình thức tổ chức trại giam, hoàn toàn (copy) lấy
mẫu từ những trại tập trung tại Nga Xô và Trung Cộng.
Đời
sống trong tù, đề tài chính vẫn là tìm cách cải thiện (từ ngữ VC) tìm thêm cái
gì đó để giấu diếm, lén lút đem vào trại, rồi nấu nương (ca cóng) ngay trong
phòng giam, thường xuyên nhất là nấu nước pha trà, bằng mọi cách anh em chúng
tôi cũng tìm được trà móc câu, đem vào nấu nước uống. Mặc dù quy định của trại
tù, cấm nấu nướng trong phòng giam, nhưng anh em cũng phớt lờ đi.
Cuối tuần nghỉ lao động, anh em chúng
tôi thường tổ chức những buổi văn nghệ bỏ túi ca hát cho nhau nghe, hay ngồi nghe
kể chuyện, những câu chuyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung thường được nhắc
đến.
Trong trại 6 có (Cả Dực) tức nhà thơ
Đại Lãn, Nguyễn Thượng Dực, là người thường hay tổ chức những buổi thuyết
trình, anh nấu nước sôi để pha trà, và mời diễn giả đến thuyết trình ngay trong
láng trại. Nhà thơ Hà Thượng Nhân là người được mời nhiều nhất, vì ông sẵn sàng
chia sẽ tất cả những kinh nghiệm cuộc đời của ông, và những đề tài về thi ca và
văn chương, ông không sợ, nếu bị tố cáo, ông sẽ bị biệt giam, đây cũng là hào
khí của một nhà văn, nhà thơ lão thánh.
Hà Thượng Nhân là bút hiệu của nhà thơ Phạm Xuân Ninh, sinh năm 1920, một bút
hiệu khác là Hoàng Sĩ Trinh.
Ông từng
dạy học ở trường Dũng Lạc, Hà Nội, và trường Thiếu Sinh Quân (Liên khu IV)
rồi theo kháng chiến, nhưng đến năm 1952, thì ông về Hà Nội, rồi di cư vào miền
nam. Ông gia nhập QLVNCH, cấp bậc sau cùng là Trung Tá
Dưới
thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông soạn tập (Sơ thảo lý thuyết chiến tranh tâm lý) và đảm nhiệm Nha
Chiến Tranh Tâm lý. Cơ quan này sau phát triển thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Việt Nam Cộng hòa.
Ông
làm giám đốc Đài phát thanh quốc gia, rồi làm chủ bút và chủ nhiệm nhật báo
Tiền Tuyến, và nhật báo Tự do, ông
thường góp bài dưới bút hiệu Tiểu
Nhã và phụ trách mục thơ châm biếm "Đàn ngang cung". Bút
hiệu khác của ông là Nam Phương
Sóc, trên báo Ngôn
Luận. Ông là thành viên của Trung Tâm Văn
Bút Việt Nam.
Nhà thơ
lão thành Hà Thượng Nhân, một con người có tư cách, sống rất hiên ngang, mặc dù
trong tù, ông vẫn không sợ những kẻ (bán linh hồn cho quỷ) làm antien báo cáo
để kiếm điểm. Ông có một trí nhớ rất tốt, ông thuộc lòng tất cả những bài thơ
mà ông đã viết trong tù, cũng như những bài thơ mà ông thích. Trong những lúc
ngồi tâm sự cùng anh em tù, bên cái lon guigoz nước trà và ống điếu thuốc lào,
ông vẫn đọc những bài thơ cho mọi người cùng nghe. Trong số những bài thơ của
Tô Thúy Yên, tôi thích nhất là bài (Tầu Đêm).
Phải công nhận trí nhớ của cụ Hà rất
tốt, như thuộc lòng bài thơ Tầu Đêm của Tô Thùy Yên. Qua giọng đọc, trầm ấm và
truyền cảm. Cụ Hà ngồi nhâm nhi hụm nước trà, Cụ Hà đọc bài Tầu Đêm nghe mà não
nùng, xé nát tâm gan.
“Tầu đi. Lúc đó đêm vừa mỏi.
Lúc đó sao trời đã ngủ mê.
Tầu rú. Sao ơi hãy thức dậy.
Long lanh muôn mắt tiễn người đi.
Bài thơ rất dài cụ Hà,
uống một ngụm nước trà và kéo một điếu thuốc lào, nhả khói mơ màng, cụ đọc tiếp.
Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc.
Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai.
Ta gọi bàng hoàng ta thất lạc.
Ta còn chẳng đủ nữa ta đây.
Bài thơ không dừng lại ở
đấy, những ý tưởng còn đi sâu hơn nữa, vào tận đáy của địa ngục trần gian. Cụ Hà Thượng Nhân đọc tiếp.
“Ngồi đây giữa những phân cùng bụi.
Trong chuyển dời xung sát bạo tàn.
Ta trở thành than, thành xúc vật.
Tiếng người e cũng đã quên ngang”
Rồi tiếp vần thơ, cụ diễn
tả con tầu hung hãn chạy trên đường ray, sắt thép va chạm nhau, nghe như những
thỏi xường người va chạm vào nhau.
Tầu đi những chấn động hung hãn.
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau.
Ta tưởng chừng như thời đại động.
Xô
đi âm ỉ một cơn đau.
Ta nghe rêm nhức thân tàn rạc.
Các thỏi xương lìa đụng chọi nhau.
Nghe cả hồn ta bị cán nghiến.
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau.
Tầu đi như một cơn điên đảo.
Búa bổ đầu ta đau dại ngây.
Có lúc dường như ta khóc ngất.
Ôi, đời ta kiệt sức buông tay.
Tầu đi khoan xoáy qua đêm thép.
Tiếng nghiến ghê người thác lửa ta.
Lịch sử dường như rất vội vã.
Tàu không đỗ lại các ga qua”.
Đoạn
kết của bài thơ, nhà thơ Tô Thúy Yên, như nói lên khí phách của những con người
trí thức miền Nam, muốn đánh thức lương tri loài người, hãy thức tỉnh, đừng mê
muội tin vào một chủ thuyết không tưởng.
“Tầu ơi hãy kéo còi
liên tục.
Cho tiếng rền vang dậy
địa cầu.
Lay động các tầng mê
sáng tối.
Loài người xin hãy thức
cùng nhau”.
Nhà
thơ mê man nói như người nhập đồng thiếp, dứt câu thơ, ông ngồi lặng lẽ đưa tay
lên lau nước mắt. Đó chỉ là bài thơ của Tô Thùy Yên, mà cụ đã thuộc lòng, nhưng
cũng tạo xúc động mạnh mẽ vào tâm hồn, để cho nỗi đau thẩm thấu tận tim gan,
cho dòng nước mắt uất nghẹn tuôn trào.
Nếu
nói về cụ Hà Thượng Nhân, phải viết cả một quyển sách dầy cũng chưa hết. Nhà
thơ Hà Thượng Nhân, khi nói chuyện về thơ, cụ hay nhắc đến những bài thơ thời
xa xưa, như Đỗ Phủ, Lý Bạch. Cụ Hà có nhắc đến bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Bạch
Cư Dị, đó là bài Tỳ Bà Hành, Nói về tâm trạng của hai người bạn, tiễn đưa khách
tại bến Tầm Dương, chắc có lẽ vì (Bến Tầm Dương), cùng âm với Huyện Thanh
Chương, nơi chốn nhà tù mà cụ Hà đang bị giam cầm, cho nên cụ Hà đã viết:
Ý tưởng bài thơ Tỳ Bà Hành, như gợi nhớ lại âm điệu đoạn trường
của tiếng đàn ngày xưa, trên bến Tầm Dương, sông nước mênh mộng, nhưng cũng
chính là tiếng lòng rung động của một người bị trói buộc vào những cảnh ngộ đau
lòng. Cho đến ngàn năm sau vẫn còn lại một mình ta.
Cụ Hà đã viết.
“Ôi cơn gió heo may thuở trước
Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương
Về đây rừng núi Thanh Chương
Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ.
“Ôi cơn gió heo may thuở trước
Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương
Về đây rừng núi Thanh Chương
Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ.
Trước
đã có nhà thơ cùng quẫn
Ngàn năm sau sao vẫn còn ta?
Đời gần tưởng đã rất xa
Bâng khuâng vì tiếng tỳ bà chưa nghe…”
Ngàn năm sau sao vẫn còn ta?
Đời gần tưởng đã rất xa
Bâng khuâng vì tiếng tỳ bà chưa nghe…”
Nhà thơ Hà Thượng Nhân, được thả về
năm 1983, đến năm 1990 ông đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Ông sinh sống
tại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose. Tại nơi đây các nhà văn, nhà thơ đã hội tụ,
trong đó có nhà văn lão thành Dương Huệ Anh, có thêm nhà thơ Đông Anh và cụ Hà
Thượng Nhân, và nhiều nhà thơ khác, sáng lập cơ sở Văn thơ Lạc Việt. Sau này
tôi cũng trở thành một thành viên của VTLV. Ông mất năm 2011 tại san Jose,
hưởng thọ 91 tuổi.
Tại trại 6, trong những buổi nói
chuyện, ngồi bên nhau tâm sự, thường các nhà thơ hay tụ họp bên nhau, trong đó
có cụ Hà, nhà thơ Tô Thúy Yên, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, nhà văn Nguyễn Trung
Dũng, và một vài anh em mà tôi không nhớ tên.
Riêng Cụ Hà và Ông Nghiêm, hai người
có bộ nhớ rất tốt. Có lần Ông Nghiêm cao hứng đọc luôn một bài thơ.
-
“Buổi
chiều chở cát bên bờ sông Giăng.
Ta ngồi ta khóc. Trông về phương
Nam.
Ngọn gió Hoan Châu rào rào cát chạy.
Nghìn dặm bóng chim bay nước sóng
sánh bờ”.
Nhắc
đến nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, cũng xin nói sơ qua về tiểu sử của ông. Nhạc sĩ Vũ Đức
Nghiêm sinh ngày 30 -6-1930 tại làng Hoàng Nha, huyện Giao Thủy, Tỉnh Nam Định.
Ông say mê âm nhạc từ nhỏ, ca khúc đầu tiên ông sáng tác năm 17 tuổi. Năm 1951
ông theo học khóa 1 Nam Định, cùng khóa với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. cấp bậc
cuối cùng là Trung Tá Huấn Luyện Tiếp Vận. trường Chỉ Huy & Tham Mưu Đà Lạt
và Long Bình. Ông sống hiên ngang, cương trực, không sợ hãi trước áp lực của
cán bộ quản giáo coi tù. Ca khúc (Gọi người yêu dấu) ông viết năm 1969, đã tạo
nên tên tuổi của ông
“Gọi
người yêu dấu bao lần
Nhẹ nhàng như gió thì thầm
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi
Gọi người yêu dấu trong hồn
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương”.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi
Gọi người yêu dấu trong hồn
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương”.
Tôi rất kính mến nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm và ngưỡn mộ
tài năng âm nhạc của ông, khả năng (Ký xướng âm) của ông thật tuyệt vời, ông
sáng tác nhạc, mà không cần bất cứ dụng cụ âm nhạc nào, ông chỉ cần xướng âm rồi
tự viết ra nốt nhạc. Có lần tôi cầm một bản nhạc, với tựa đề “Như Cơn Gió Lốc”
do tôi mới học sáng tác trong tù, bản nhạc viết trên giấy bao xi măng, ông cầm
trên tay và hát đúng giai điệu của bài hát, ông có lời khen tôi về bài hát này.
Sau
này khi định cư tại San Jose, tiểu ban California, tôi có gặp lại ông, khi sinh
hoạt trong hội Văn Thơ Lạc Việt. Ông mất ngày 24-7-2017 tại San Jose. Hội Văn
Thơ Lạc Việt trong đó có tôi, đã làm lễ truy điệu và tưởng niệm cho Nhạc sĩ Vũ
Đức Nghiêm. Buổi lễ tưởng niệm đã được thực hiện Video và post trên YouTube.
Có
một ca khúc sáng tác trong tù, tại trại Long Giao, Tân Hiệp, Biên Hòa, chúng
tôi thường nhắc đến, đó là ca khúc (Anh Ở Đây) sáng tác của Thục Vũ. Nhạc sĩ Vũ
Đức Nghiêm đã viết thêm lời hai cho ca khúc này.
Nhạc sĩ Thục Vũ, tức Trung Tá Vũ Văn Sâm. Tham Mưu
Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh, năm 1975 ông bị tù tại Long Giao, năm 1976 ông bị lưu đầy
ra Sơn La. Nhạc sĩ Thục Vũ từ trần ngày 15 tháng 11 năm 1976 tại trại tù Sơn
La, vùng núi Tây Bắc Việt Nam. Nhạc sĩ Thục Vũ đã trở vế cõi hư vô, nhưng ông
đã để lại cho vườn hoa âm nhạc VN, những ca khúc tuyệt vời.
Trong đó có ca khúc (Anh Ở Đây)
“Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây
Áo rách xác xơ vai gầy
Cùng chung kiếp sống lưu đầy
Anh ở đây, ngày ngày cơm chưa đầy chén
Chiều chiều xa trông đàn én
Kiếm mồi thấp thoáng bay nhanh.
Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn
Tiếp nối những dư âm buồn
Thành thơ ray rứt tâm hồn
Trăng ngậm sương, mịt mờ không soi nẻo tối
Đường dài sao rơi lạc lối
Cho lòng giăng mắc không nguôi
Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con
Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt
Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất
Nhớ thương vơi đầy hẹn hò vương chân mây”
Áo rách xác xơ vai gầy
Cùng chung kiếp sống lưu đầy
Anh ở đây, ngày ngày cơm chưa đầy chén
Chiều chiều xa trông đàn én
Kiếm mồi thấp thoáng bay nhanh.
Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn
Tiếp nối những dư âm buồn
Thành thơ ray rứt tâm hồn
Trăng ngậm sương, mịt mờ không soi nẻo tối
Đường dài sao rơi lạc lối
Cho lòng giăng mắc không nguôi
Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con
Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt
Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất
Nhớ thương vơi đầy hẹn hò vương chân mây”
Lời của ca khúc còn dài,
còn tiếp nỗi những dư âm thật buồn, những giai điệu ai oán, như tiễn biệt một
người đi. Ca khúc như một tiếng nấc nghẹn, một cơn đau, cho thân phận người tù
không bản án. Tù binh chiến tranh (POW) prisoner of war.
Riêng về nhà thơ Tô Thùy Yên, tức Thiếu Tá Đinh Thành Tiên, ông sinh
ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gò vấp. Ông có thơ đăng trên báo Đời Mới (1950),
sau này ông trở nên nổi tiếng trên tạp chí Sáng tạo. Năm 1963 ông nhập ngũ, chức
vụ cuối cùng là Thiếu Tá trưởng phòng Tâm Lý Chiến. Ông bị cầm tù gần 13 năm,
cho đến năm 1993, cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Tô Thùy Yên mất ngày 21
tháng 5 năm 2019, tại Houston Texas.
Tôi và nhà thơ Tô Thùy Yên, chỉ là sự tình cờ ngẫu
nhiên, tôi lại ở chung đội 15 với ông và như một cơ duyên, tôi nằm bên cạnh nhà
thơ Tô Thùy Yên, trong thời gian này, tôi nhận thấy nhà thơ có vẻ đăm chiêu,
suy nghĩ như đang thai nghén một tác phẩm, đó là bài thơ Ta Về.
“Tiếng
biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang.
Ta về cho kịp độ xuân sang.
Ta
về – một bóng trên đường lớn.
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu.
Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ. “
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu.
Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ. “
Đúng như lời thơ ông viết, anh em tù như chúng tôi,
đã trải qua nhiều năm tháng đến nỗi mặt xạm soi khe nước, mà tưởng rằng đã hóa
thân thành loài vượn cổ xưa, người tù ngắm bóng mình dưới dòng nước, mà ngơ
ngác nhận không ra, ta là ai, đến nỗi những tảng đá ngây ngô bên bờ đất, cũng
phải ngậm ngùi thay cho thân phận người tù không bản án.
Trong thời gian này tôi cũng tập tành làm thơ, và
Tô Thùy Yên, đọc qua thơ của tôi, ông cũng ngỏ lời khen, thơ cũng có hồn. Ông
nói với tôi
-
Chưa chắc những
nhà thơ nổi tiếng, tất cả thơ của họ đều
hay. Anh khuyên Tuấn cứ tiếp tục làm thơ, rồi cũng
sẽ hay.
Tôi rất cám ơn về lời khuyên của nhà thơ Tô Thùy
Yên, rất tiếc sau này khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi chưa có dịp gặp lại ông, vì
hai tiểu ban xa cách nhau.
Tôi rất buồn khi nhận được tin Nhà Thơ Tô Thùy Yên
đã từ bỏ cuộc chơi, trở về cõi hư vô. Tôi rất kính phục tài năng của ông, chính
ông đã để lại những tuyệt tác cho kho tang văn học của người Việt Hải Ngoại.
Trong tập thơ của ông, tôi thích nhất là bài Tầu
Đêm, bài thơ này đã lột tả được hết ý nghĩa của một giai đoạn lịch sử, mà bên
thắng cuộc đã trả thù, đã hành hạ những người lính bên thua cuộc. Chính nhà thơ
và toàn thể anh em chúng đều là nhân chứng của lịch sử, cho cuộc chuyển dời.
“
Trong chuyển dời xung sát bạo tàn.
Ta trở thành than, thành xúc vật.”
Ngoài
ra Nhà thơ Tô Thúy Yên có một bài thơ khác, mà tôi cũng rất thích đó là bài Ta
Về. Trong tác phẩm (Bên Thắng Cuôc) của Huy Đức, có trích đoạn mấy câu trong
bài Ta Về
“Ta về cúi mái đầu
sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc bể dâu này.”
Tôi chợt nhớ lại năm
1983 sau tám năm tù, được thả cho về nhà. Tôi có viết một bài thơ rất gần gũi
với bài thơ của tiền bối Tô thùy Yên, nhưng tôi ghi lại với một tâm trạng khác
hẳn với ý của ông.
Ta về giữa phố người xa
lạ
Nghe hồn nặng trĩu nỗi
xót xa
Tám năm biệt, xứ ngày
trở lại
Tàn tạ kiếp người trận
phong ba.
Ta về, Mẹ mừng rơi nước
mắt
Em thì ngơ ngác nhận
không ra.
Đêm nay bếp ấm khơi thêm
lửa
Chó ánh hồng lên sáng cả
nhà.
Trở
lại với thực tại mà câu chuyện đang diễn tiến tại trại 6 Nghệ Tĩnh. Vào cuối tuần
được nghỉ lao động. Nhà thơ Đại Lãn Nguyễn Thượng Dực, tổ chức một buổi thuyết trình. Hôm nay Nhà
thơ lão thành Hà Thượng Nhân, tuyết trình về đề tài (Sách lược đấu tranh chống
cộng sản)
Nhà thơ Hà Thượng Nhân, không nao núng sợ hãi,
những cây (antenna) báo cáo kiếm điểm, Ông nói thao thao bất tuyệt về cuộc chiến
đấu chống cộng. Cuộc chiến đấu chống Cộng Sản đòi Tự Do và Dân Chủ cho Việt Nam
là một cuộc chiến phức tạp và không cân sức giữa hai khối:
Khối Tự Do - Yêu Nước và Khối Cộng Sản - Cường
Quyền. Những người dân trong nước là những người không có phương tiện tự bảo vệ.
Trong khi đó, khối cường quyền thì dùng mọi thủ đoạn để đàn áp.
Người cộng sản, quan niệm rằng (yêu nước là yêu
xã hội chủ nghĩa), điều này có nghĩa rằng tổ quốc Việt Nam không là gì cả, mà
xã hội chủ nghĩa mới là mục đích tối thượng để tôn thờ. Như vậy tất cả những
người dân chống chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa đều là những người yêu nước. Ông nói
thao thao về sách lược đấu tranh.
Buổi thuyết trình hôm ấy coi như thành công,
không thấy động tĩnh gì về phía ban quảng giáo trại giam. Do đó những buổi thuyết
trình như thế này, vẫn được tổ chức hàng tuần.
Anh Nguyễn Cộng Luận (Giám đốc Chiêu Hồi) thuyết
trình về đề tài: Chính sách Chiêu Hồi. Chính sách này là một chương trình do chính phủ VNCH đề ra để
kêu gọi các thành phần của Mặt trận Giải phóng miền Nam và bộ đội miền Bắc,
buông súng quay về với chính phủ VNCH. Chính sách Chiêu Hồi, rất thành công, đã
có nhiều cán binh từ bỏ hàng ngũ cộng sản, trở về với Quốc Gia.
Buổi thuyết trình của anh Luận, rất lưu loát, rất
hay, anh em ngồi chung quanh lắng nghe, và đồng ý với những lý lẽ của anh Luận.
Sau này tôi gặp anh Luận tại San Jose, tôi đã đến
thăm anh, khi ấy trông anh rất tiều tụy vì đủ thứ bệnh, mỗi ngày anh phải uống
hàng nắm thuốc. Mặc dù bệnh nặng, anh vẫn viết rất nhiều về chiến tranh VN.
Tôi hỏi anh Luận. Sao anh không viết bằng tiếng
Việt, cho người Việt dễ đọc
Anh Luận trả lời
Mình viết bằng tiếng Anh (English) để cho người
Mỹ, và thế giới đọc, rồi sau này con cháu chúng ta, những thế hệ mai sau, không
nói, và đọc tiếng Việt, họ sẽ tìm sách tiếng Anh để đọc.
Anh Nguyễn Công Luận đã viết nhiều tác phẩm về
chiến tranh Việt Nam, sách của ông được in và bán trên hệ thống
Amazon.
Amazon đã nhận xét về những tác phẩm của Nguyễn
Cộng Luận như sau:
(Những
câu chuyện về cuộc sống làng quê ở miền bắc của ông đều hấp dẫn như những câu
chuyện về chiến đấu và những bi kịch chiến tranh. Những điều ông viết ra, rất
trung thực về những con ngưới rất bình thường, nhưng chứa đầy tính chất anh
hùng, của thế hệ mà ông đã sống.)
Như quyển Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned
Soldier.
Tạm dịch: Người theo chủ nghĩa dân tộc trong
chiến tranh Việt Nam: Hồi ức của một người lính biến thành nạn nhân.
Rất tiếc cho một nhân tài như anh Nguyễn Công
Luận, bệnh hoạn đã cướp mất thể xác ông. Nguyễn Công Luận đã vĩnh viễn rời xa
cõi trần gian, tại San Jose. Nhưng trước khi ông trở về cõi vĩnh hằng. Nguyễn
Công Luận đã kịp lưu giữ lại cho hậu thế, những tác phẩm viết về chiến tranh Việt
Nam thật tuyệt vời.
Những buổi thuyết trình được tổ chức trong trại
tù số 6, vẫn tiếp diễn, nhưng địa điểm thì thường thay đổi, khi ở láng này
(phòng giam), khi ở láng khác, tất cả địa điểm, đều nằm trong chu vi trai giam.
Lần này đến nhà thơ Đại Lãn Nguyễn Thượng Dực,
ông có biệt danh là (Cả Dực) do anh em đặt tên cho ông, từ khi ở trại 4 Văn Chấn.
Lần này Nguyễn Thượng Dực, sẽ thuyết trình về đề tài. Dân Chủ Tự Do Và Bình Đẳng.
Anh Dực có năng khiếu về tuyết trình, anh luôn
pha trò một cách ví von, bằng những vần thơ, hay ca dao, tục ngữ, dẫn đưa người
nghe đi từ ngạc nhiên này, đến những thú vị khác.
-
Anh nói
Tự do như không khí, chỉ khi nào bị ngạt thở,
chúng ta mới thấy không khí là cần thiết. Chỉ khi nào mất tự do, chúng ta mới
thấy tự do là quan trọng. Tự do không hoàn toàn miễn phí, cho không, mà chúng
ta phải tranh đấu để bảo vệ Tự Do. Anh Dực luôn đem vào bài thuyết trình của
mình, những bài thơ ngắn, nhưng rất có ý nghĩa. Theo quan niệm của anh về thơ
và văn. Anh Dực nhận định như sau:
Chửi không phải là thơ. Thơ phải giãi bày những
chân thiện mỹ, để cho mọi người nhận biết. Khác hẳn với định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chính quyền dùng bạo lực để ép buộc, giới văn học, nghệ thuật, phải viết
để ca tụng chế độ cộng sản.
Anh Dực mượn bài thơ (Hoa Hướng Dương) của nhà
thơ Nguyễn Hữu Nhật, phu nhân của bà Nguyễn Thị Vinh, em gái nhà văn Nhất Linh
(Tự Lực Văn Đoàn).
Anh Dực đã thuộc lòng và đọc bài thơ này cho
anh em cùng nghe:
“Dù yêu tất cả loài hoa
Sao anh vẫn
ghét nếu là hướng dương
Mênh mông
trời đất vô thương
Cớ sao chỉ
hướng một phương mặt trời.
Dù yêu tất
cả loài người
Sao anh vẫn
ghét những lời nói chung
Tâm hồn
ta rộng vô cùng
Cớ sao
ngôn ngữ đóng khung hẹp hòi.”
Bóng hoàng hôn buổi chiều còn chưa tắt hẳn, tiếng kẻng vang lên
từng hồi, đó là tiếng kẻng chấm dứt một ngày. Từng đội tập trung trước phòng
giam, từng người đếm số thứ tự, lần lượt bước (vào chuồng) vào trong phòng
giam, khóa chặt cửa. Từ phòng giam, nhìn qua cửa sổ song sắt, người tù nhìn thấy
bức tường đá vây quanh, với hàng rào kẽm gai giăng ngang, nhìn lên bầu trời, chỉ
thấy một màu xám, đen tối của một buổi chiều tắt nắng. Bóng đêm ma quái bao phủ
tương lai đen tối của người tù không bản án.
Những ngày tháng tại trại 6 Nghệ Tĩnh, cũng chỉ là những chuỗi
ngày buồn chán. Mọi hoạt động tiếp diễn theo tiếng kẻng, buổi sáng đi lao động,
buổi chiều tập trung về lại trại giam, đi lãnh cơm chiều, thường xuyên chỉ là hạt
bo bo, hay những mẩu khoai mì, mà anh em tù gọi là (cây đèn cầy), đôi khi họ
cho người tù ăn, khoai lang phơi khô, ngâm nước đem nấu, mỗi người được một bát
khoai lang, rất khó nuốt vì đắng như (thuốc bắc), ấy vậy mà tên Thượng tá công
an trại trưởng, dân Nghệ An chính cống, nói giọng rất khó nghe, trong một buổi
lên lớp tại hội trường, hắn nói oang oang.
-
Các anh biết không, khoai
lang phơi khô là món rất quý của nhân dân.
-
Nhiều anh em nghe hắn nói
mà tức không chịu được, phải buộc miệng chủi thầm.
-
Đù má, nếu quý hiếm như thế,
sao chúng mày không giữ
mà ăn, lại đem nấu cho tù ăn, những bát khoai lang khô, đen xì lẫn
đất cát, ăn vào muốn ói, đắng như thuốc bắc.
Trong các trại tập trung của cộng sản, những bữa cơm trắng, mà
người tù có thể nhìn thấy, trong một năm, có thể đếm trên đầu ngón tay, đó là
những ngày lễ lớn.
Tóm lại họ cho chúng tôi ăn để cầm hơi, không phải chết vì
quá đói, do đó sức khỏe người tù thì càng yếu dần. Ban chỉ huy trại giam phải
áp dụng chính sách cho nhận bưu phẩm, cứ 3 tháng một lần, tù nhân được viết thư
về gia đình xin bưu phẩm, mội phần qùa tối đa 2 ký lô. Họ cho rằng đây là một
ân huệ, nhưng thực chất là cứu đói, làm giảm bớt số lượng tù nhân bị chết trong
trại.
Sau này tiến xa hơn một tí, họ cho phép thân nhân được đến thăm
nuôi. Những người Vợ, người Mẹ từ miền Nam xa sôi ngàn dặm, gồng gánh đến tận
trại 6 huyện Thanh Chương để thăm nuôi tù, đường xá vào thời gian đó không có
nhiều phượng tiện, phải đi bằng xe đạp thồ qua từng đoạn, có khi đi bằng xe
trâu, rất vất vả vô cùng tận. Khi đến được trại 6, nơi phòng thăm nuôi, người
tù và thân nhân chỉ được gặp mặt trong vòng 15 phút, dưới sự quan sát của công
an. Trong giai đoạn này, tôi cũng được Mẹ tôi và em gái, lặn lội đường xa từ Sài
Gòn đến thăm nuôi.
Người Chinh Phụ miền Nam, qua những tình cảm thương yêu dành trọn
vẹn cho chồng, con, đã vượt lên tất cả, khiến cho những người phụ nữ miền Nam,
trở thánh những nữ lưu oanh liệt. Khác hẳn những tuyên truyền láo khoét mà cộng
sản đã nói xấu, về vợ con các cựu sĩ quan QLVNCH.
Tôi vinh danh những người phụ nữ miền Nam VN, là những nữ lưu
anh hùng, quả đúng như vậy, những người Chinh Phụ, sống trong một xã hội cộng sản,
mọi luân thường đạo lý bị đảo ngược, cuộc sống vô cùng khó khăn, bị đe dọa đủ
điều, bị tịch thu tài sản, bị lưu đầy đi kinh tế mới, con cái bị phân biệt đối
sử, bị chèn ép, xét lý lịch 3 đời, một hình thức (chu di tam tộc) nhầm bần cùng
hóa gia đình, thân nhân, của chế dộ cũ. Nhưng người Chinh Phụ miền Nam vẫn bất
khuất, vẫn tự đứng dậy, vươn lên. Để sau này chính thế lực bạo tàn cộng sản,
cũng phải nể phục.
Dù sao cũng nhờ vào chính sách cho nhận qùa, và cho phép gia
đình thăm nuôi, đã làm cho tình hình trại giam, bớt đi mùi tử khí bệnh hoạn và
cái chết của người tù cũng giảm dần. Chính những phần quà ít ỏi này, đã giúp
anh em chúng tôi, cầm cự sống lây lất qua ngày đoạn tháng, có những anh em (tứ
cố vô thân), không có thân nhân gửi quà, cũng đước anh em chúng tôi chia sẻ.
Như trường hợp
cựu TSQ Đại Úy Nguyễn Văn Trâm, anh là một cựu TSQ Hà Nội, là vua “đọi”
không bao giờ nhận được tiếp tế và thăm nuôi của gia đình, nhưng sống rất
tự trọng và nhân cách.
Xin nhắc lại ở những giai đoạn đầu tiên, đội nhà bếp do tù hình
sự phụ trách, do đó phần ăn của tù, đã bị bớt sén. Ví dụ họ lấy cắp một ký gạo,
thì họ sẽ chộn lẫn váo đó một ký sạn cát, để khi kiểm tra, nếu có đem lên cân,
số ký lô vẫn như cũ, đây cũng là một nguyên nhân, những chén cơm tù có nhiều sạn
cát.
Cho đến khi tù (Chính trị) chuyển về trại 6, và qua nhiều lần đấu
tranh, anh em chúng tôi mới được thành lập đội nhà bếp. Cũng vì một lý do đa
nghi của ban quản giáo công an, họ không tin tưởng những thành phần sĩ quan chế
độ cũ.
Nhưng về sau này, họ bớt đi sự nghi nghờ, và họ đã thành lập đội
nhà bếp, do anh em chúng tôi phụ trách. Từ ngày đó, mỗi bữa ăn có phần đỡ hơn, vì không bị ăn bớt, và không bị cát sạn, chộn lẫn vào thực phẩm như trước kia.
Về sau này những ngày lễ Tết, đều do anh em chúng tôi phụ trách,
trong những phần ăn không còn lẫn cát sạt. Ngay cả ban chỉ huy trại, những cán
bộ công an, cũng nhờ anh em chúng tôi vo gạo, và nấu bánh chưng cho ngày Tết.
Chính cán bộ công an cũng phải thừa nhận, anh em chúng tôi làm rất vệ sinh sạch
sẽ.
Thời gian là loại thuốc an thần, nó tạo thành một thói quen để mặc
nhiên thừa nhận một thực tại. Cá nhân tôi đã cảm nhận được, cuộc sống như là một
sự phóng thể, mặc kệ những diễn biến đang xoay quanh, như ngày và đêm, khi ấy
tôi mất đi cảm nhận về ngày tháng, hôm nay là ngày mấy tháng mấy tôi không biết,
cứ mỗi lần chuẩn bị cho ngày Tết sắp đến, tôi lại nhận ra, vậy là một năm nữa
đã qua đi.
Tại trại 6, phân ra khoảng 20 đội, mỗi đội có một cán bộ
quản giáo cộng an, đội 15 chúng tôi, có quản giáo là thiếu úy Lý
(tôi quên họ). Về con người và cá tính của Thiều úy Lý, cán bộ Lý mang nhiều nữ
tính hơn nam tính, tôi phải dùng từ ngữ là hơi (ẹo ẹo), bản tính cũng hiền
lành, không đến nỗi quá khắc khe như người khác. Cán bộ Lý có nhiều cảm tình với
tôi, có lần cán bộ Ly nói đùa với tôi
-
Anh Tuấn à, tôi phải gọi
anh là kỹ sư đồ nhôm, vì anh làm những sãn phẩm bằng nhôm rất đẹp.
Có lẽ vì tôi có nhiều tài vặt, rất khéo tay, tôi thường làm
những hộp đựng thuốc lá, hay thuốc lào, những vòng đeo tay, những
cái nhẫn đeo tay có cẩn hạt mầu (hạt mầu là cán bàn chải đánh răng), làm những ống
điếu hút thuốc lào bằng ống tre, có bọc nhôm được trạm trổ rất tinh sảo, và
đánh bóng loáng trông rất đẹp. Có nhiều cán bộ công an đã phải nhờ cán bộ Lý,
xin cho tôi làm những món quà kỷ niệm để họ tặng bạn gái, hay gia đình. Những sản
phẩm do tôi làm, được cán bộ đem khoe với tù hình sự.
Chính những tài
vặt này đã đem lại cho tôi một công việc, coi kho dụng cụ cho đội đâp đá, tôi
được cung cấp những dụng cụ như, kìm, búa, đục giũa, tôi có một chỗ ngồi kín
đáo, phía sau nhà kho để làm việc. Nhờ tôi có tài vặt, biết vẽ những họa tiết đẹp,
để điêu khắc, do đó những người tù hình sự, họ thường tìm đến tôi để nhờ vẽ mẫu,
trạm trổ trên thân ống điếu hút thuốc lào.
Trong số những người tù hình sự, có Sơn (đầu gấu) một tay anh chị
dân Hải Phòng, tôi thấy bản tánh của Sơn cũng hiền lành, nói chuyện với tôi rất
lễ phép, coi trọng những người tù (chính trị), tù chính trị để phân biệt với tù
hình sự.
Tôi hỏi Sơn
-
Anh thấy Sơn cũng hiền mà
tại sao gọi là đầu gấu.
Sơn trả lời
-
Một khi đã bị bắt vào trại
giam, bất cứ vì tội gì, người tù
mới vào, sẽ bị những tay anh chị trong tù chấn lột, đánh đập tàn
nhẫn nếu không nghe lời chúng. Nếu muốn sống còn trong tù thì phải có gan, tạo
cho mình một tên tuổi, một nền móng, một đẳng cấp anh chị, bằng cách tiêu diệt
một tay anh chị khác, một cách tàn bạo nhất đôi khi giết người. Một khi đã bị kết
án, tội giết người, thì tất cả những tù nhân khác sẽ nể sợ và tôn lên hàng đầu
gấu, không đứa nào giám đụng đến.
Sơn kể cho tôi nghe những vụ án, đâm chém rất dã man
trong tù, đôi khi chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, như tranh giành miếng
ăn, hay một va chạm nhỏ, cũng dẫn đến đâm chém nhau, cái chết xẩy ra thường
xuyên, đến nỗi người tù xem đó như một chuyện bình thường không quan tâm đến.
Cuộc sống của những người tù hình sự là như thế.
Trong giai đoạn này bản án tập trung cải tạo 3 năm, vẫn còn được
áp dụng, đây là bản án không thành văn bản, muốn kéo dài bao lâu cũng được. Do
đó người tù hình sự cố tình gây àn, để được ra tòa, được kết án vài năm tù, còn
hơn giữ nguyên án lệnh tập trung cải tạo. Không có một chế độ nào mà người tù lại
mong muốn được ra tòa, mong muốn được kết án, để thoát khỏi bản án cao su, tập
trung cải tạo, mỗi lệnh kéo dài 3 năm.
Sơn (đầu gấu) thường đến nhờ tôi vẽ những họa tiết những con rồng
uốn lượn trên mây, những con phụng hoàng bay lượn, và những hoa văn trang trí
trên ống điếu, để Sơn tự trạm khắc đường nét trên mặt nhôm.
Mỗi lần Sơn đến,
thường mang theo nhúm thuốc lào, hay gói trà móc câu, chúng tôi ngồi nói chuyện
vui, và ca hát những bản nhạc vàng rất hay. Có lần Sơn mang đến một cây đàn
guitar thùng (của gia đình gửi vào) tiếng đàn nghe rất ấm, chúng tôi đàn hát thật
vui, tôi có cây kèn (harmonica) thổi lên hòa cùng tiếng đàn, nghe rất hay. Từ
đó Sơn càng quý mến tôi hơn.
Tôi ngỏ lời xin Sơn cây đàn guitar thùng, tôi nói.
-
Sơn cho anh cây đàn này được
không, anh biết cây đàn
này rất quý hiếm, nhưng dù sao, Sơn cũng có nhiều điều kiện hơn
anh, vì gia đình Sơn đến thăm nuôi thường xuyên hơn, có thể xin mua một cây đàn
khác. Riêng anh thì rất khó vì gia đình ở miền Nam rất xa. Tôi chỉ đề nghị cầu
may vậy thôi.
Tôi thấy Sơn (đầu gấu) có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, vậy
mà khoảng 2 tuần sau Sơn mang đến cây đàn guitar, một tài sản có
giá trị trong tù. Sơn nói rất cảm động.
-
Em tặng anh cây đàn này
làm kỷ niệm, vì em rất quý mến
anh Tuấn và các anh tù chính trị.
Tôi và Sơn quen biết nhau một thời gian khá lâu. Từ khi có cây
đàn guitar, tôi lại có thêm một niềm vui trong tù, là tự học đánh đàn.
Những ngày tháng
trong tù, có biết bao những chuyện xẩy ra, mỗi câu chuyện đều nói lên một tính
chất riêng biệt, của từng tâm trạng, của từng hoàn cảnh đau thương của người
tù. Và cũng có những câu chuyện mang tính chất nhân bản đầy tình người.
Trong đó phải kể
đến câu chuyện về cựu TSQ Thiếu tá Lê Văn Hai, anh là sĩ quan cháng văn phòng
cho Cựu TSQ Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, khi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Thiếu
tá Lê văn Hai cũng là cựu Giáo Sư, dạy toán lý hóa tại trường TSQ Vũng Tầu. Anh
Hai ở đội 4 tăng gia, sản xuất, gọi chung là (đội Mía) trồng mía, nấu đường.
Cán bộ quản giáo đội 4, là Thượng Úy Thục, ông này có hai cô con
gái đang học trung học. Cán bộ Thục đã âm thầm đem hai cô con gái, đến gặp Thiếu
Tá Lê văn Hai, xin bái làm gia sư dạy toán cho hai cô. Cũng nhờ Thiếu Tá Hai dạy
kèm thêm toán, mà sau này hai cô con gái của Thượng Úy Thục, đã trở thành học
sinh giỏi nhất môn toán của Tỉnh Nghệ Tĩnh. Từ đó Thượng Úy Thục rất nể phục
anh Hai, và dĩ nhiên mối liên hệ tình cảm này phải giữ bí mật, nếu tiết lộ, những
cán bộ công an khác biết được, thì họ sẽ chụp mũ ghép tội cho Anh Hai, là cố
tình tìm cách tiếp cận cán bộ với âm mưu sấu.
Trong khuôn viên
trại 6 có một hội trường lớn, người tù phụ trách hội trường là Đại Úy Họa Sĩ Phạm
Hoàng, anh Hoàng có nhiệm vụ trang trí hội trường mỗi khi có buổi học tập, hay
trang trí hội trường cho ngày Lễ, ngày Tết. Có lần tôi nhắc đến anh Hoàng trong
câu chuyện (Người tù và cái lon giugoz). Họa sĩ Phạm Hoáng phải vẽ lại tất cả
những cấp bậc của quân đội miền Nam VN. Một số anh em chúng tôi đứng xem anh vẽ
-
Anh Hoàng chợt hỏi
Cấp bậc cao nhất trong quân đội là cấp nào, ngoài Thống Tướng Lê Văn Tỵ
Tôi vừa cười vừa nói, như pha trò cho vui. Anh Hoàng vẽ
một cái lon Guigoz thật lớn ở trên cùng là hay nhất.
Cả đám cười ầm lên. Anh Hoàng nhin tôi, vừa cười vừa
nói. Thắng Tuấn này, nó nói chơi vậy mà cũng đúng lắm, ai mả chả
cần cái lon Guigoz.
Trong ban chật tự trại 6, có một người tù được nhiều anh
em để ý đến đó là Trung Úy Phan Huy Bách, binh chủng không quân,
phi công lái phản lực F5E , loại phản lực cơ tối tân nhất của Hoa Kỳ cung cấp
cho không quân VNCH, vào thời trước năm 1975. Anh Bách chính là con trai của cựu
Thủ Tướng Phan Huy Quát. Sau này có dịp ở gần anh Bách, tôi nhận thấy con người
anh rất điềm đạm, trung thực, rất tự trọng và anh Bách co một đặc điểm là rất vệ
sinh, anh lau chùi từng tí những vật dụng mà anh có.
Trở lại với đội 15, đội đập đá, đội trưởng do anh em bầu lên là
Trung tá Nguyễn Phú Thọ, một người có tư cách và tự trọng, Anh Thọ đại diện cho
anh em trong đội để làm cái gạch nối giữa quản giáo với người tù, nhưng anh
luôn bênh vực quyền lợi cho anh em.
Anh Thọ thật khổ sở vì căn bệnh bí đái (sạn thận) căn bệnh này
đã hành hạ anh suốt thời gian tù. Sau này tôi được nghe kể lại. Khi anh Thọ ở
trại Hàm Tân Z30D, căn bệnh sạn thận, đã làm anh bí đái sút chết, người ta phải
đưa anh đi cấp cứu, anh Thọ đã được đưa về bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn để điều trị.
Tại bênh viện Chợ Rẫy, gia đình anh Thọ đã đến nuôi bệnh. Chính
gia đình anh Thọ đã mua chuộc công an gác tù. Gia đình đã lén lút đưa anh Nguyễn
Phú Thọ, trốn khỏi bệnh viện Chơ Rẫy, tổ chức vượt biên, và may mắn Trung tá
Nguyễn Phú Thọ đã đi thoát và định cư tại Canada. Cuối cùng căn bệnh quái ác
này cũng cướp mất cuộc sống của anh. Trung tá Nguyễn Phú Thọ, khi anh đến miền Nam
Cali để tham dự buổi họp mặt, anh đã lậm trọng bệnh và mất tại Miền Nam Cali.
Nhắc lại chuyện cán bộ Lý, phụ trách đội đập đá, hay gọi một cách
thông thường nhất là đội Lò Vôi. Cán bộ Lý, mặc dù là công an, gia đình thuộc
thành phần trung kiên với đảng, nhưng cá tánh cán bộ Lý, hơi nghiêng về nữ
tánh, từ dáng đi và cử chỉ khiến người ngoài nhìn vào, có nhận xét giống (Bê
Đê). Mỗi lần Tết ban chi Huy trại tổ chức văn Nghệ giúp vui, tôi cũng có một tiết
mục thổi kèn (harmonica). Từ đó cán bộ Lý rất thích cây kèn (harmonica), nhiều
lần cán bọ Lý ngỏ lời muốn xin tôi cái kèn. Cán bộ Lý nói
-
Anh Tuấn. Anh cho tôi cái kèn (nằm) được
không.
Tôi nghe câu (Kèn nằm) thì tự nhiên buồn cười, vì cây
kèn (harmonica) luôn nằm ngang trên môi người thổi kèn.
Nhiều lần cán bộ Lý ngỏ lời, cuối cùng tôi đã đồng ý,
tặng cán bộ Lý cái kèn Harmonica. Cán bộ Lý mừng lắm, cái kèn hiệu
Comet của Đức có cả hộp đựng. Món quà bé nhỏ mang theo giai điệu của âm nhạc,
cũng như cây đàn Guitar thùng, của người tù hình sự tên Sơn (đầu gấu) tặng cho
tôi. Cả hai đều ẩn chứa một giai điệu rất tự nhiên, như một nốt nhạc trầm trong
dòng nhạc dân gian. Hay một dấu lặng trong âm nhạc, nhưng để lại một dấu ấn đầy
tình người.
Một thời gian
sau Ban Chỉ Huy trai có lệnh, chuyển đổi các đội, những người từ đội này, chuyển
qua đội khác, với mục đích làm đảo lộn một trật tự. Chủ trương của Ban Chỉ Huy trại
tù, họ không muốn, những người tù ở lâu trong một đội, dễ đi đến thân quen và cấu
kết với nhau thành một tổ chức. Trong lần chuyển đổi này tôi được chuyển đến đội
nhà bếp (đội Anh Nuôi) từ ngữ VC. Chắc có lẽ cán bộ Lý đã đền bù cho tôi vì món
qua cây kèn nằm.
Bất cứ ai được chuyển đến đội nhà bếp, thì xem như là một ân huệ,
vì dù sao cũng có thể kiếm thêm một miếng cơm cháy, hay một chút mắm muối. Mặc
dù công việc nhà bếp cũng khá vất vả, chẻ củi, kéo nước, nhặt rau, vo gạo nấu
cơm cho hàng ngàn người ăn không phải chuyện dễ làm.
Tôi mới đến đội nhà bếp, phải phụ trách đốt lò, phải trẻ củi, từ
những gốc cây to lớn, trẻ nhỏ ra xếp vào nơi khô ráo, vì trời mùa đông hay mưa,
củi ướt thì rất khó nhúm lò, công việc rất vất vả, nhưng khi lò đã cháy đỏ rực,
thì củi khô hay tươi đều đốt được.
Viết đến đây tự nhiên tôi lại nghĩ đến câu nói của ông Nguyễn
Phú Trọng Tổng Bí Thư Đảng, với biệt danh người đốt lò thời hiện tại, ông ta đã
nói một câu, với ngụ ý chống tham nhũng trong nội bộ đảng do ông lãnh đạo.
“Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải
cháy”
Cũng bởi những tài vặt như, vẽ vời, điêu khắc,
mà không lâu sau, cán bộ công an quản giáo đội nhà bếp, lại yêu cầu tôi làm những
món quà kỷ niệm, những ống điếu hút thuốc lào thật đẹp. Tôi chọn một góc khuất
phía sau nhà kho, gần bức tường đá cao, làm cơ sở sản xuất, cũng tại nơi này
tôi đã quen biết Sơn (Đầu gấu) người tù hình sự mà tôi đã viết ở phần đầu,
chính địa điểm này Sơn (đầu gấu) đã cho tôi cây đàn Guitar thùng, một tài sản
quý giá trong tù.
Đội nhà bếp vậy mà có rất nhiều chuyện vui buồn
xẩy ra, có làm việc tại nhà bếp mới thấy những cảnh chia chác, những phần thịt
trâu, thịt heo. Vào những ngày lễ lớn, Ban Chỉ Huy Trại cho mổ trâu, mổ heo,
làm thịt ăn mừng lễ, thế nào những phần thịt ngon nhất cũng phải để dành chia
cho các Cán Bộ cấp lớn, đôi khi chính người vợ của cán bộ xuống tận nơi, xem mổ
trâu để lấy phần. Đây cũng là lý do những phần ăn của người tù chỉ còn lại vài
miếng da trâu.
Cũng tại đội nhà bếp, có anh Đương (người công
giáo Hố Nai), anh Đương là người chuyên mổ heo. Một hôm cán bộ quản giáo đội,
đã ra lệnh cho anh Đương bắt một con heo trong chuồng, đem ra mổ sống, nghĩa la
chói chân con heo lại, không cần chọc tiết, cứ thế mổ banh ra. Anh Đương không
chịu làm, anh nói.
-
Tôi không
giám làm như thế vì ác lắm, mình làm như vậy tôi chết
-
Cán bộ
nói
-
Tội lỗi
tôi chịu, anh cứ làm theo lệnh của tôi, vì tôi muốn xem trái tim con heo nó đập
như thế nào.
-
Anh Đương
nói, như thế thì ác quá. Chúng tôi đứng xem, cũng lên tiếng
-
Làm như
thế ác lắm, tội lỗi chết
-
Cán bộ
công an, nhất quyết phải làm theo ý ông ta
Cuối cùng anh Đương phải mổ con heo theo đúng ý
cán
bộ. Tay cán bộ công an nhìn tận mắt, trái tim con
heo vẫn còn đập. trong niềm tin vô thần của con người cộng sản, anh ta đã thỏa
mãn được cái ác đầy tội lỗi.
Có một lần tôi chứng kiến, một con chó bịt cột
chặt, thân
hình nó bị treo ngược đầu trên một cái cột gỗ,
để chuẩn bị giết thịt. Tôi đến gần xem, con chó kêu lên tiếng hứ hứ, vì mõm nó
bị buộc chặt, tiếng kêu của con chó như đang cầu cứu và ánh mắt của nó như đang
rươm rướm nước mắt, như muốn van xin tôi giải cứu, tôi vuốt đầu con chó và nói;
-
Tao rất
thương mày, nếu tao có quyền phép, tao sẽ cắt
giây chói thả mày ra ngay lập tức. Hiện tại tao
chỉ là một người tù, không làm gì được để cứu mày. Xin tạm biệt một con chó
đáng thương.
Đội Già Yếu
Trại 6 có một đội, gọi là đội già yếu bệnh tật, đội này quy
tụ tất cả những anh em, già yếu bệnh hoạn, không lao động được.
Cán
bộ công an quản giáo là nữ Thiếu Úy Y Tá tên Lục (tôi không nhớ họ), biệt danh
(Bò Lục) một quân cờ (domino) mà hai đầu đều là số 6. Nữ y tá Bò Lục là một thiếu
nữ người Nghệ An, có một dáng người cao ráo, mái tóc đen dài, bộ ngực hơi đồ sộ
và cặp mông căng tròn, nếu ở thời hiện tại thì gọi là (người đẹp chân dài). Bò
Lục có quyền quyết định cho những anh em đến khai bệnh, được miễn lao động, hay
tiếp tục đi lao động. Sau khi khám bệnh, được cấp phát thuốc, đa phần là loại
thảo dược (Xuyên tâm liên) một loại thần dược trị bá bệnh.
Xuyên
tâm liên là loại cây có nguồn gốc từ Ấn Độ và Sri Lanka, thân cây có nhiều đốt,
mọc thẳng đứng, cao khoảng 8 tấc, cây xuyên tâm liên mọc hoang dại ở nhiều nơi
trên cả nước.
Bò Lục mỗi sáng lững thững đi vào trại
tù, đến trạm xá, dáng đi đỏng đảnh, cặp mông đưa qua đưa lại, bờ ngực nhô cao,
mái tóc đen dài búi gọn, đem lại một hình ảnh tươi mát. Vì dù sao có bóng dáng
đàn bà ở một nơi tù tội, giam giữ đàn ông, thì cũng đỡ hơn, phải gặp mặt những
tên công an quản giáo, mặt lúc nào cũng hầm hầm đầy sát khí.
Bò
Lục như một bông hoa mọc giữa rừng gươm, dù cho loài hoa này có phải là loài
(hoa cứt lợn) hay không, thì nó vẫn mang đến một sắc màu cho đời sống bớt phần
tẻ nhạt. Thật ra hoa cứt lợn là một loài hoa ngũ sắc khá đẹp, chỉ vì thân và lá
có mùi hôi, nên phải mang cái tên xấu xí ấy.
Bò Lục có một người tù phụ giúp đó là
Trung úy Đẩu huấn luyện viên võ thuật cho Không Quân, tôi không biết nguyên do
từ đâu mà anh Đẩu được làm phụ tá cho Bò Lục, coi luôn đội Già yếu, bệnh hoạn.
Đội
Giá yếu nằm cuối trại, bên cạnh cái giếng nước, và một cây mít tỏa bóng mát. Vị
trí đội cũng gần với phòng biệt giam, nơi giam những người tù bị kỷ luật. phòng
giam kỷ luật thật bẩn thỉu, tối tăm, người tù sẽ bị cùm chân vào bệ xi măng
(ciment), tiểu tiện tại chỗ, ăn uống rất thiếu thốn, mỗi ngày được tháo cùm ra
ngoài để làm vệ sinh.
Phòng
biệt giam luôn có một người tù, đó là một vị linh mục (không nhớ tên), mỗi buổi
sáng, ông được tháo còng ra giếng múc nước mỗi ngày. Sau này nhà thơ Hà Thượng
Nhân và nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm cũng đã tạm trú nơi biệt giam một thời gian, đến
khi cụ Hà Thượng Nhân được thả ra cụ Hà đã được chuyển đến đội gìa yếu, làm người
bạn cờ tướng với nhà văn Nguyễn Trung Dũng.
Đại úy Nguyễn
Trung Dũng binh chủng Truyền Tin. Ông sinh quán tại Bắc Ninh, di cư vào miền
nam, học sinh Chu Văn An, sau nhập ngũ, chức vụ cuối cùng Đại Úy Truyền Tin.
Anh Dũng là một nhà văn, có nhiều tác phẩm đã xuất bản trước năm 1975.
Trong Thành Phố - Ngoài Mặt Trận (1966)
Bên Này Sông - Bên Kia Sông (1968)
Vết Đạn Thù
(1969).
Sau này định cư
tại Hoa Kỳ ông cũng xuất bản nhiều tác phẩm. Tôi và nhà văn Nguyễn Trung Dũng
có một cơ duyên, khi gặp lại ông tại thánh phố San Jose. Tôi đã giúp ông
(layout) trình bày và bố cục, cho hai tác phẩm truện ngắn, sách in tại hệ thống
Amazon.
Góc thương xá phố Tấu.
Bụi hồng vàng và con chim cánh đỏ. (2018)
Nguyễn Trung Dũng, một con người có nhân cách,
tự trọng và điềm đạm, ít nói, dáng người nhỏ, gầy. Ông có mặt trong đội (Già
yếu), rất sớm. Ông kể cho tôi nghe, khi ông bị bệnh đến khám bệnh tại trạm xá,
ông khai bệnh với nữ ý tá Bò Lục, lúc đó đội trưởng Đẩu đứng gần đó nói chen
ngang;
Tôi thấy anh Dũng này, không bệnh hoạn gì cả,
cho đi
lao động. Nữ ý tá Bò Lục nhìn anh Dũng, nhận
thấy con người nhỏ con, gầy yếu, đang đứng trước mặt, dường như không đủ sức đi
lao động. Bò Lục cho anh Dũng miễn đi lao động, và từ đó anh Dũng trở thành đội
viên, đội già yếu. Và cũng kể từ đó anh Dũng, không có thiện cảm với đội trưởng
Đẩu (huấn luyên võ thuật Không Quân)
Đội già yếu không
phải ra ngoài đi lao động, chỉ loanh quanh trong trại, những công việc của anh
em trong đội Già yếu, phân ra hai loại.
Loại quá yếu thì quét sân, hay ngồi
nhổ cỏ. Loại còn ít sức khỏe thì làm công việc khá nặng nhọc, mỗi ngày phải
khiêng thùng đến các nhà cầu (cầu tiêu), múc nước tiểu và phân, đổ vào thùng
chứa, khiêng ra cổng cho người mang đến đội tăng gia sản xuất, làm phân bón
trồng rau. Công việc này hôi thối vô cùng. Anh Dũng đã nhiều lần phải làm công
việc này.
Đội Gìa yếu vậy mà cũng có nhiều mẩu
chuyện vui. Một hôm có anh đến khám bệnh, rồi kể lại cho anh em nghe. Anh nói: Con mụ ý tá Bò Lục coi trạm xá, cũng là loại dâm nữ.
Một hôm tôi đến khám bệnh, tôi khai bệnh, bị đau bọng đái, muốn
xin thuốc uống giảm đau. Bò Lục cố tình bắt tôi cởi quần để khám mới chịu cấp
thuốc. Cởi thì cởi, thế là tôi tụt quần cởi truồng. Bó Lục đứng nhìn hai mắt cứ
đờ ra.
Có anh bạn nói
chen vào câu chuyện về Bò Lục
Anh bạn này nói:
-
Đến bây giờ các ông mới biết
Bò Lục là dâm nũ, thì quá
muộn rồi. Tụi tôi đi lao động ngòai trại, mỗi buổi chiều về, cả
đám trần truồng nhào xuống ao tắm, mười lần hết chín, chúng tôi nhìn lên, đều
thấy Bò Lục đi ngang, tay cầm nón cối che mặt, nhưng mắt thì liếc nhìn, những
thân hình đàn ông trần truồng như nhộng dưới ao. Dường như Bò Lục cố tình đi
ngang vào những giờ người tù xuống ao tắm.
Có những lần chúng
tôi nhìn thấy Bò Lục đi bên cạnh anh Đẩu, một sĩ quan võ thuật, thân hình cường
tráng, hai người dẫn nhau đi hái dược thảo, bên những bụi cây, hay bên sườn đồi
núi, trông như đôi tình nhân, không biết có chuyện gì xẩy ra, chì có trời biết,
đất biết.
Đội già yếu có thêm một nhân vật đó là Minh khùng, không biết Minh
khùng bị điên giả hay thật, nhưng sau nhiều lần kiểm chứng, Minh khùng được về
đội Già yếu. Trước khi vượt qua những kiểm chứng bệnh tâm thần. Minh đã bị biệt
giam, nhưng Minh đã tuyệt thực, chống đối đến cùng, suốt ngày chửi rủa cộng sản,
anh bị đánh đập cũng không ăn thua, cuối cùng cán bộ trại nhượng bộ, cho Minh
khùng miễn lao động, suốt ngày lang thang nhìn trời nhìn đất, lẩm bẩm nói lung
tung. Anh Minh bị điên thật hay giả, chỉ một mình anh biết, điều duy nhất chúng
tôi nhận thấy đó là, anh Minh đã thành công, là người tù duy nhất không phải
làm bất cứ điều gì.
Cuộc sống trong tù vậy mà có nhiều tin tức đồn thổi lung tung, từ
những tin lượm lặt đăng trong tờ báo cũ, dùng để gói quà, rồi tin đồn từ thân
nhân đến thăm nuôi, tức là tin từ miền Nam, có cả tin đồn chính phủ Mỹ đang
thương lượng, sẽ đến tận nhà tù để bốc tù chính trị đi thẳng qua Mỹ, những tin
đồn được thổi phồng, qua các nhà tiên tri, bói toán mới nổi lên trong trại tù.
Vậy mà nó cũng có một tác động nho nhỏ, tạo thêm niềm tin cho người tù.
Tuy nhiên có một tin tức rất nóng hổi, từ đội rau xanh, anh em đã
chứng kiến tận mắt, có một xe Molotova chở đến một chuyến hàng, gồm có 7 thùng
hàng lớn, được tù hình sự khiêng xuống, nguôn tin còn cho biết rất chính xác,
bên trong thùng chứa toàn là còng số 8, loại còng để còng tay tôi phạm.
Tin đồn rồi cũng nhanh chóng qua đi. Mỗi sáng tiếng kẻng đánh thức,
khi mặt trời vừa ló rạng qua bức tường đá, tiếng con gà trống nuôi tại nhà bếp
cất tiếng gáy vang. Người tù uể oải thức dậy chuẩn bị cho một ngày mới, lao động
vất vả, cuốc đất, lên luống trồng rau, khoai, sắn, đập đá, nấu vôi. Một ngày với
những cộng việc nặng nhọc, vất vả, dưới cái nắng nóng khi mùa hè, hay cái buốt
giá mưa phùn, khi mùa đông. Thân xác người tù rã rời, mệt mỏi, cho đến khi buổi
chiều vàng, lầm lũi đi về trại tù, nhận lãnh một phần ăn quá ít, chỉ đủ không bị
chết vì đói. Tiếng kẻng vang lên (leng keng) như tiếng chuông gọi hồn, đó là tiếng
kẻn vào chuồng, lại đếm số từ 1 cho đến người cuối cùng, cửa phòng giam khóa lại,
người tù chìm trong giấc ngủ ma quái, không có một tia hy vọng nào cho tương
lai.
Ấy thế mà trại tù số 6, cũng xẩy ra một vụ trốn trại. Cuộc vượt ngục
lần này tổ chức có vẻ rất quy mô. Cửa sổ song sắt đã được cưa từ trước và ngụy
trang rất khéo léo, chỉ cần bẻ cong là chui ra ngoài. Nhóm trốn trại có 4 người,
tôi chỉ nhớ tên, gồm có Anh Xường – Anh Đại (Quận trưởng Chơ Gạo, Long Xuyên) –
Anh Xuyên (Thiết giáp) và anh Thơm phi công trực thăng.
Nhóm 4 người đã vượt thoát một cách ngoạn mục, khiến cho ban chi huy
trại phải huy động lực lượng đi truy lùng. Cả trại nghỉ lao động phải lên hội
trường nghe thuyết giảng với đủ thứ lời đe dọa. Chúng tôi ngồi nghe, anh em thầm
cầu cho, nhóm 4 người vượt thoát một cách bình an.
Mấy ngày sau, một tin buồn đến với chúng tôi. Ban chi huy trại
tuyên bố, nhóm trốn trại đã bị bắt, 2 trong số người này đã bị bắn chết, Anh Đại
và anh Xường còn sống, 2 anh bị thương nặng vì bị đánh đập trên đường chuyển về
trại 6. Cả hai bị biệt giam, suốt một thời
gian dài, cho đến ngày 2 anh được cho về đội. Tôi đã đến thăm Anh Đại, anh nằm
trên cái chiếu rách, cài vòng bụng của anh mỏng dính như dán chặt dưới manh chiếu,
tất cả xương cốt nổi lên, gương mặt anh trông như một cái đầu lâu, riêng cặp mắt
anh Đại vẫn chuyển động, trông anh như bộ xương người trưng bày cho sinh viên y
khoa học. Anh Đại đã sống sót. Sau này được biết anh Đại đi định cư tại Texas.
Những tin tức, những sự kiện rồi cũng nhanh chóng qua đi, không ai
còn đủ sức để mà nghĩ đến. Lại có nguồn tin mới lan truyền rộng rãi trong trại,
đó là trên ban chỉ huy trại, đang có một buổi họp quan trọng với giới chức từ Tỉnh
Thành về họp. Nguồn tin lần này có vẻ đáng tin cậy, như vậy chắc chắn phải có
chuyện gì xẩy ra, theo tin đồn là sắp có đợt chuyển trại.
Người tù cũng không cần phải đợi lâu. Vào mộ buổi sáng sớm, cánh cổng
trại tù mở rộng, một toán đông công an áo vàng, súng AK cầm tay đi vào đứng hai
bên, một vài cán Bộ cấp cao, tay sách cặp, tay cầm những hồ sơ dầy cộm, tất cả
bước vào hội trường.
Cán bộ ra lênh cho tất cả các đội, mang hết tư trang ra tập họp
chuẩn bị chuyển trại. Chúng tôi mang hết tư trang ra ngồi xẹp xuống đất, ngồi
chờ lệnh. Đại đa số anh em cũng bàn tán suy đoán chuyển trại lần này chắc sẽ đi
vào miền Nam, thế nhưng tin tức về mấy thùng còng số 8 thì sao, không lẽ để
còng tay chúng mình.
Không phải chờ đợi lâu. Trại trưởng trại tù số 6 đã lên tiếng, với
chất giọng Nghệ Tĩnh hơi khó nghe, ông ta đọc thông cáo.
Các anh nghe đây, do chỉ thị từ trên đưa xuống, hôm nay các anh sẽ
có một đợt chuyển trại. Các anh hãy giữ im lặng, nghe cán bộ đọc tên, những ai
có tên thì đứng lên, đi về bên trái hội trường, những ai không nghe đọc tên
mình, thì ngồi yên tại chỗ sẽ có cán bộ hướng dẫn sau.
Cán bộ đọc tên từng người, lần lượt những người nghe đọc tên mình
thì đứng lên đi qua bên trái, số người được đọc tên càng lúc càng đông, tất cả
đứng dồn về bên trái hội trường, số anh em không được đọc tên mình thì ngồi lại
tại chỗ, những khoảng trống cáng lúc càng rộng hơn, còn lại lưa thua một số ít
người ngồi lại. Cá nhân tôi cũng nằm
trong số những người không có tên, vào khoảng 50 người bị kẹt ở lại, anh em
chúng tôi nhìn nhau với một tâm trạng thật buồn, không biết số phận của mình sẽ
đi về đâu. Một số bạn bè có tên ra đi, nhắn lời chia tay với số ít người còn ở
lại.
Tất cả những anh em có tên chuyển trại, đã lần lượt ra khỏi cổng
trại, nơi đó có đoàn xe Molotova đang chờ sẵn, sẽ đưa tất cả ra nhà ga Vinh,
trên sân ga có đoàn tầu đang chờ sẵn, số thùng còng số 8, được mở ra, cứ hai
người tù bị còng chung một cái, người bên tay trái, người bên tay phải, thành một
cặp đôi, nếu một người muốn đi tiểu, người bạn chung một cái còng, cũng phải đi
theo, anh em sẽ bị còng như thế, cho đến điểm cuối cùng tại nhà ga Hàm Tân.
Chuyển về trại giam Hàm Tân Z30D.
Những anh em còn ở lại được gom chung thành một đội, vào khỏang 50
người, chúng tôi mang hết tư trang, tập trung vào một phòng, lần này phòng giam
tù trở nên trống trải rộng rãi, mỗi người có thể trải chiếu, giăng màn, nằm thoải
mái.
Trong nhóm người bị ở lại, ngoài tôi ra, còn có Dương Văn Chương tức
(Chương Dỏm), Cưu TSQ Đại úy Phạm Trọng Khiêm (An ninh quân đội) và những người
bạn mà tôi quên tên. Trại tù số 6, trở nên trống vắng, nhiều phòng giam bỏ trống,
Những người còn ở lại, mấy ngày liền chúng tôi không phải đi lao động,
nhìn quanh trại tù, chỉ toàn là tù hình sự, những người tù chính trị, còn lại
như chúng tôi không biết sẽ đi về đâu, có những tin đồn chúng tôi sẽ chuyển trại
đi nơi khác.
Thời gian này là mùa hè, đã bước vào tháng 7 năm 1982. Một tháng
sau khi có đợt chuyển tù chính trị về hàm Tân Z30D. Đến lượt chúng tôi chuyển
trại.
Buổi sáng sớm, một toán nhỏ cán bộ công an vào trại:
Cán bộ cấp cao trên Ban Chỉ Huy trại tuyên bố;
-
Tấc cả các anh chuyển trại
ngay hôm nay, các anh vào lấy hành trang chuẩn bị ra xe,
lần này cán bộ không dấu diếm, họ nói thẳng nơi đến. Đó là trại 3
Tân Kỳ, Nghệ An, điều này có nghĩa rằng, chúng tôi bị đi ngược về phía bắc,
không được vào miền Nam, thật đáng buồn cho anh em chúng tôi.
Ngoài cổng trại có
4 xe Molotova chờ sẵn, chúng tôi leo lên, ngồi bệt xuống sàn xe, có một điều ngạc
nhiên là chúng tôi không bị còng tay. Đoàn xe từ từ chuyển bánh chạy trên con
đường đất đỏ bụi mù, hình ảnh trại 6, những bức tường đá, những ruộng rau, và
hai ngọn núi đá vôi, mờ dần theo lớp bụi đường xa.
Đoàn xe chạy đến bến đò Dùng, bắc ngang sông Lam, chạy về Đô Lương
đến thành phố Vinh, chạy theo QL15 về xã Nghĩa Dũng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ
An. Trại giam số 3, trực thuộc V26 Tổng Cục 8 Bộ Công An.
Trại tù số 6 Thanh Chương, cũng giống như trại tù số 3 Tân Kỳ, đều
trực thuộc Bộ Công An quản lỳ, chúng tôi đền trại 3 cũng không có gì là bỡ ngỡ,
chỉ có vị trí và phong cảnh là khác biệt. Chúng tôi được phân theo đội và nhập
chung với, những tù chính trị đã ở đây trước khi chúng tôi chuyển đến. tấc cả đều
là anh em Sĩ Quan chế độ cũ, chúng tôi lại gặp nhau, đôi khi có người đã quen
biết từ trước, như cùng khóa, cùng đơn vị.
Có một điều sự gặp gỡ lần này, đã làm tôi lo âu, bởi vì thành phần
tù chính trị tại nơi này có nhiều thành phần khác nhau. Đặc biệt là anh em biệt
kích, phải nói cho đúng hơn đó là những điệp viên xâm nhập vào lãnh thổ của miền
bắc VN. Mà sau này tôi có dịp đọc qua tác phẩm Thép Đen của nhà văn Đặng Chí
Bình, với bí danh (X20), là một trong những tù binh chiến tranh từ năm 1962.
Đặng Chí Bình đã trải qua 18 năm lưu đầy, nhưng ông vẫn hiên
ngang, tâm hồn ông chính là sắt thép, một viên kim cương quý hiếm nhất, một tinh
thần bất khuất của người chiến sĩ QLVNCH.
Tôi giật mình chợt nghĩ không lẽ thân phận tôi chì là một con tép
riu nhỏ bé, lại bị lưu đầy một thời gian dài như vậy hay sao. Tôi chợt nhìn lại
xung quanh có biết bao anh em giống như mình, thôi thì cũng mặc cho số phận đưa
đẩy tới đâu hay đó.
Trại 3 Tân Kỳ, vào thời gian đông đúc nhất có thể chứa trên 1000
tù nhân, thế nhưng gần đây mới có lần chuyển trại, một số đông anh em tù chính
trị đã chuyển về miền Nam, và một số ít tù chính trị ở các trại bị dồn về đây,
trong đó có anh em trại 6 Thanh Chương.
Trại 3 Tân Kỳ có hai khu, anh em tù đặt tên là khu Đông Đức và khu
Tây Đức, hiện tại trại 3 có vào khoảng 500 tù nhân, bao gồm nhiều thành phần.
Nổi bật nhất là anh em Biệt Kích, người tù nổi tiếng nhất trong
nhóm biệt kích là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, anh Luyện là người tù binh duy nhất
không bị đi lao động, sự cương quyết đấu tranh, của anh đã được mặc nhiên thừa
nhận từ rất lâu. Nguyễn Hữu Luyện có tiếng nói rất trọng lực, vì toàn thể anh
em tù biệt kích đều lắng nghe mệnh lệnh của anh, mọi người xem anh là vị chỉ
huy tối cao.
Ngoài ra trại 3 còn giam giữ, một lực lương Fulro. Mặt trận giải
phóng liên kết các dân tộc bị áp bức (Front unifie pour la Liberation des races
opprimees), đây là một tổ chức do người Pháp bảo trợ. Phong trào này đã hình
thành từ năm 1960, đã gây không ít phiền toái dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Đa số
anh em Fulro là người Thượng Tây Nguyên, có một điều lạ, là anh em Fulro khai
báo toàn chức vụ cao, từ Thiếu Tá đến cấp Đại Tướng, riêng trại 3 Tân Kỳ đã giam giữ khoảng 200 cấp
tướng của Fulro. Mà thật ra những anh em này chỉ là đồng bào thiểu số, không biết
chữ, họ rất ngây thơ, thể hiện qua từng cử chỉ lời nói, họ chỉ nhe răng cười một
cách rất hồn nhiên, vậy mà họ rất thích cấp bậc cao, tự khai lý lịch là cấp tướng
cho oai.
Trại 3 Tân Kỳ là một trại giam, có nhiều thành phần tù chính trị bị
giam cầm tại nơi này. Một số đông các vị linh mục Tuyên Úy Công Giáo (các Cha)
từ trại Bình Đà, trại Thanh Phong thuộc Thanh Hóa, bị chuyển trại đến tập trung
tại trại 3 Tân Kỳ. quý Cha có hỏi thăm tôi, vì biết tôi là người Công Giáo, tôi
không nhớ tên các vị Linh Mục, vì tôi ở đội khác, không cùng chung một phòng
giam.
Còn một thành phần tù chính trị rất đặc biệt đó là (Những người tù
khờ dại) từ con tầu định mệnh Việt Nam Thương Tín.
Con tầu Việt Nam Thương Tín là một con tầu vận tải hang hải. Ngày
30 tháng 4 năm 1975. Từ Sài Gòn con tầu này chạy qua khu Rừng Sát trên sông
Lòng Tàu, vào khoảng 12 giờ trưa, con tầu đã bị bắn trúng 3 trái đạn pháo,
không may cho nhà văn Chu Tử và một cháu bé, trúng đạn, chết ngay trên tầu. Con
tầu bị trúng đạn, vẫn tiếp tục chạy đến Vịnh Subic thuộc Philippines. Tại nơi
đây con tầu VNTT đã được sửa chữa, chạy về đảo Guam.
Anh em tù VNTT đã kể lại cho tôi nghe, vào thời gian đó, Hải Quân
Hoa Kỳ, đã cung cấp đầy đủ tiện nghị, thực phẩm dư thừa, quần áo, chăn màn rất
nhiều, người tị nạn tha hồ lấy về lều, ăn không hết, thì vứt đi, những tấm
(chăn đắp) còn mới nguyên trong bọc, người tị nạn lấy về, đem trải xuống nền
cát trong lều để làm thảm dẵm lên, hình ảnh này làm người Mỹ phải lắc đầu, bởi
vì họ phát chăn để đắp, không phải để làm thảm nhà.
Trên đảo Guam vào thời điểm đó có vào khoảng 1,600 người, một số
đông họ đòi trở về Việt Nam. Chính quyền Hoa Kỳ cho họ có quyền tự quyết định.
Riêng con tầu VN Thương Tín , đã được Hải Quân Hoa Kỳ, cho sửa chữa, trang bị đầy
đủ nước uống và thực phẩm, để sẵng sàng trở về VN. Người Chỉ Huy con tầu là
Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ, và một nhạc sĩ Hải Quân Nguyễn Thìn, tức Trường
Sa
Sau này tôi có dịp nói chuyện với Trung Tá Trần Định Trụ, ông đã kể
lại, vào thời gian đó tâm trạng cuả người tị nạn, đều nhớ nhà không muốn xa gia
đình, cộng thêm sự tuyên truyền của cộng sản (Xóa bỏ hận thù) qua những tờ báo
do Nga Xô ấn hành, do đó một số đông đồng bào đòi về lại VN. Con số ghi danh trở
về là 1,600 người. Một con số quá đông. do đó hải Quân Mỹ phải nâng cấp và sửa
chữa con tầu VNTT.
Sáu tháng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày định mệnh đã đến đó
là ngày 16 tháng 10 năm 1975, con tầu VNTT đã được phép ra khơi trở về VN.
Chíng Phủ Mỹ cũng biết những người tị nạn VN, đang bị cộng sản tuyên truyền xúi
dục. Trước khi lên tầu, người Mỹ vẫn mở ra một cơ hội cuối cùng cho những ai muốn
xin ở lại. Tại cổng lên tầu Hải Quân Mỹ, phân ra hai cổng, một cổng lên tầu, và
một cổng ở lại, cũng có một số người đi vào cổng xin ở lại. Cuối cùng có tất cả
1,546 người quyết định về lại VN.
Trung Tá Trụ, kể tiếp cho anh em chúng tôi nghe, khi con tầu VNTT
ra khơi. Hải Quân Mỹ luôn theo dõi, có những chiếc trực thăng bay thấp trên
vùng trời con tầu VNTT, để bảo đảm sự an toàn tuyệt đối, sự quan tâm của Hải
Quân Mỹ đã theo sát con tầu VNTT cho đến khi về đến Việt Nam.
Ngày 27
tháng 10 năm 1975, con tàu VNTT cặp bến Vũng Tầu,
nhưng chính quyền (Mặt trận giải phóng) tại nơi đây không cho cặp bến, con tầu
VNTT phải rời bến chạy về Nha Trang, tất cả người tị nạn đều bị bắt giam ở trại
Đồng Tre, tỉnh Phú Khánh. Thành phần người tị nạn bị phân loại, và
số đông quân nhân Hải Quân VNCH, bị lưu đầy đến Trại 3 tân Kỳ. Đây là lý do khi
mở đầu câu chuyện về người tù VNTT, tôi đã viết trong dấu ngoặc (Những người tù khờ dại).
Những người tù VNTT bây giờ cảm thấy hối tiếc vì thời gian tại đảo
Guam, so với hoàn cảnh hiện tại thì được ví như. Thiên Đàng và Địa Ngục. Họ đã
đến cửa Thiên Đường của thế giới tự do, nhưng họ muốn trở về một Thiên đường mù
cộng sản, để bây giờ ngồi ôm hận, bởi vì quá (Khờ dại)
Những tháng cuối năm 1982 tôi đã gặp Trung Tá Trụ tại trại 3, và một
số anh em tù trở về từ con tầu VNTT, bây giờ mọi người đều có chung một niềm mơ
ước đó là được quay trở lại quá khứ, để quyệt định ở lại trên vùng đất tự do.
Người tù nhạc sĩ Trường Sa, trong ban trật tự của trại giam số 3,
dường như sống biệt lập, không gần gũi với anh em tù, mỗi lần tập trung đi lao
động, tôi thấy Trường Sa với nét mặt thật buồn, đứng một bên nhìn anh em tù đi
lao động.
Tôi hỏi thăm một số anh em ở đây đã lâu, mọi người cho biết, không
ai có thiện cảm với Trường Sa, vì họ cho rằng ông này là cây Antena cho công an
trại 3. Trường hợp của Trường Sa, gần giống như nhạc sĩ Vũ Thánh An, đã để lại
nhiều tai tiếng trong tù.
Trại 3 Tân Kỳ còn có một câu chuyện rất hấp dẫn, đó là sự vượt ngục
thành công của Huỳnh Công Ánh. Tôi được anh em tù chính trị, ở đây đã lâu kể lại.
Đại Úy Sư Đoàn 22 Bộ Binh Huỳnh Công Ánh, người tù chính trị trại
3 Tân Kỳ, một con người rất dễ mến, anh có khả năng sử dụng những nhạc cụ như
Guitar hay chơi Violon rất hay. Huỳnh Công Ánh, là một nhạc sĩ trong ban văn
nghệ của trại 3, vào những ngày lễ Tết, trại 3 thường tổ chức văn nghệ giúp
vui, đôi khi mời cả dân địa phương đến xem, do đó anh Ánh tạo được nhiều cảm
tình với mọi người.
Có một người con gái tên Trần Thị Hoa, trong làng quê, đem lòng thầm
yêu anh Ánh, và một người bạn tù (Hình Sự) tên Nguyễn Đình Chiến, anh Chiến người
tù hình sự được thả ra tù. Nguyễn Đình Chiến đã trở lại trại giam để giúp Huỳnh
Công Ánh vượt ngục.
Đây là một câu chuyện mang đầy tính nhân bản, một biểu tượng thiên
liêng của tình người, và một tình yêu thật trong sáng, và thật vĩ đại của người
con gái chân quê Trần Thị Hoa, cô đã chấp nhận một tình yêu đơn phương, để thầm
yêu một người tù chính trị, mà cô Hoa cũng biết rằng xã hội cộng sản không chấp
nhận, nếu dính líu đến chuyện này, cô sẽ bị bắt và bị giam cầm tù tôi, nhưng cô
không sơ, vì tâm hồn cô Hoa đã tràn ngập một sức mạnh thật vĩ đại của tình yêu,
đó chính là một động lực mạnh mẽ nhất đã
thúc đẩy cô Trần Thị Hoa cùng với Nguyễn Đình Chiến, giúp Huỳnh Công Ánh vượt
ngục.
Chuyện vượt ngục xẩy ra vào khoảng năm 1980. Người tù hình sự Nguyễn
Đình Chiến, cùng với cô Trần Thị Hoa, đã thu xếp một chuyến vượt tù ngọan mục.
Họ đã chuẩn bị mọi thứ. Một ngày Huỳnh Công Ánh đi lao động ra ngoài trại, họ gặp
nhau.
Huỳnh Công Ánh đã nhanh chóng thay bộ quần áo tù, bằng bộ quân phục
bộ đội, đội chiếc nón cối, ngồi sau chiếc xe đạp, Nguyễn Đình Chiến chở anh Ánh
đi ra bờ sông Hiếu.
Sông Hiếu, còn có tên gọi khác là sông Con, là một nhánh của sông
Lam, chảy ngang qua Huyện Tân Kỳ, gần trại 3. Tại một bến đỗ trên dòng sông
này, có con thuyền chờ sẵn, con thuyền đã đưa hai người trốn thoát khỏi trại 3
Tân Kỳ.
Ban chỉ huy trại tù số 3 Tân Kỳ, sau khi phát hiện tù trốn trại, họ
đã huy động lực lưởng phù kín các con đường đi về thánh phố, nhất là hướng ra
thánh phố Vinh, nhưng họ không thể ngờ được Huỳnh Công Ánh đã đi theo đường
sông.
Sau này đọc lại quyển hồi ký của Huỳnh Công Ánh, tôi mới biết Nguyễn
Đình Chiến đã giúp anh Ánh một cách nhiệt tình, đưa anh Ánh ra nhà ga Vinh, từ
đó cả hai về Sài Gòn. Năm 1981 Huỳnh Công Ánh vượt biên đến đảo Pula Bidong
Malaysia. Riêng số phận người con gái đa tình Trần Thị Hoa, sẽ như thế nào tôi
không biết. Đọc trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh tôi thấy anh viết như sau:
"Tôi trân quý vô cùng sự hy sinh thầm lặng của cô Hoa. Tôi nghĩ bất
cứ ai trong hoàn cảnh như tôi cũng không làm sao khỏi cảm động và thương cô. Chữ
"thương" ở đây không nhất thiết là tình cảm trai gái, và dù có cũng
không có gì là lạ, mà là thương cái tình con người, thương sự hy sinh mà không
hề đòi hỏi gì khác.”
Cũng ở trại 3 Tân Kỳ, tôi còn gặp một trường hợp rất hy hữu, có lần
anh bạn rủ tôi đến gặp một người xem chỉ tay, đóan mệnh số, tôi đến gặp nhà bói
toán, thì một số anh em đang ngồi nói chuyện với ông thầy, họ nói chuyện bắng
tiếng Anh (English).
Từ đó tôi biết câu chuyện rất oan khiêng về người tù này. Thật ra
ông là một thuyển trưởng người Đài Loan, khi con tầu của ông cặp bến, chuyển
hàng tại một bến cảng Đà Nẵng, đúng vào dịp Tết Nguyên Đán, năm Mậu Thân 1968.
Ông thuyền trưởng ghé thăm cố đô Huế như một khách du lịch, nhưng
ông không ngờ xẩy ra cuộc chiến năm Mậu Thân, khi cộng quân tràn vào chiếm kinh
đô Huế. Đêm
30, rạng ngày 31/1/1968, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân bắt đầu tại Huế, với
25 ngày đêm, nổ súng, để lại biết bao tang thương.
Những
tên chỉ điểm cùng với chiến binh cộng sản đi lùng sục khắp thành phố, chúng bắt
và giết rất nhiều thường dân. Trong số người bị bắt, có ông thuyền trưởng người
Đài Loan, vì ông không biết tiếng Việt, và không tên chỉ điểm nào biết gì về
ông, do đó chúng không giết ông, nhưng chúng bắt giữ ông để điều tra, từ đó số
phận của ông đã trở thành người tù (không có ngày về), bởi vì họ đã bắt lầm một
người Đài Loan vô tội, nếu họ tha cho ông về Đài Loan, thì không khác gì tự
mình tố cáo chính quyền cộng sản VN, đã vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.
Sau này tôi nghe tin ông đã chết già trong trại tù.
Trại
3 Tân Kỳ lại có một trường hợp đau thương khác, đó là một người bị điên, ông là
một Thiếu Tá đơn vị Địa phương Quân, lâu quá tôi không nhớ tên ông, nhưng câu
chuyện của ông thật đau lòng, ông Thiếu Tá đã ngoài 60 tuổi, vì bị tù quá lâu,
lòng ông đã quặn đau vì nỗi nhớ thương vợ con, chắc hẳn hoàn cảnh vợ con ông,
đang gặp nhiều khó khăn trong một xã hội cộng sản, mọi đạo lý luân thường bị lật
ngược, những người Chinh Phụ miền Nam và con cái họ, đang bị phân biệt đối sử,
bị chèn ép, bị đánh đổ tư sản, bị cưỡng bức đi kinh tế mới. Nỗi lo âu luôn đè nặng
trong tâm trí ông, nó đã gậm nhấm, giằng xé trong tâm hồn ông, hằng đêm ông thường
mê sảng, gọi tên vợ con, nỗi đau đã bào mòn tâm hồn ông và tâm trí ông , để rồi
hóa điên.
Có
một hôm cả trại đang tập họp để phân công đi lao động, thì ông Thiếu Tá đã trèo
lên thật cao trên cây đa gần cuối sân trại, ông đứng trên đó nhìn xuống những
người công an áo vàng, với giọng nói miền trung, ông bắt đầu chửi.
-
Tổ cha bây. Chúng bây hại dân hại nước.
Bây hại
vợ con tau, tổ cha bây bất nhân vô hậu. Ông chửi liên tục
không ngừng.
vợ con tau, tổ cha bây bất nhân vô hậu. Ông chửi liên tục
không ngừng.
Cán
bộ đến gần gốc cây, ông đe dọa sẽ nhảy cắm đầu xuống đất chết. Mọi người đều biết
ông Thiếu Tá bị điên, ban chì huy trại cũng biết rõ điều này, nên họ không làm
khó ông, họ chỉ khuyên răn, nhưng ông nhất định không nghe, vậy mà có một người
tù đi đến và khuyên ông leo xuống, không hiểu sao ông lại nghe lời. Người tù đó
chính là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện.
Câu
chuyện ông Thiếu Tá điên cũng là một trường hợp được mặc nhiên thừa nhận, thỉnh
thoảng ông lại leo lên cây chửi chơi, rồi leo xuống.
Trở
lại với thân phận của tôi, chỉ có mình tôi đứng riêng
một
đội, với một túi sách nhỏ may bằng bao cát, bên trong là một ít cọ vẽ, cây bút
chì, nhúm thuốc lào, một cái ống điếu bằng tre do tôi tự làm với cái nõ khoét bằng đá,
mỗi lần hút nó kêu như con dế.
Số
phận tôi cũng hơi lạ, vì khi vừa chuyển về trại 3, người tù (họa sĩ) làm công việc trang trí cho
ban Chỉ Huy trại, đã chuyển về miền Nam, do đó thiếu người, ban quản giáo tìm
người biết vẽ, anh em giới thiệu tôi, và tôi nhân lời, cũng vì thích vẽ (hội họa),
do đó mỗi lần đi lao động, chỉ có mình tôi đi đến hội trường, tại nơi này có một
phòng vẽ, do Thiếu Úy Công an tên Thắng phụ trách, cán bộ này cũng có một đam
mê (Hội Họa) nhưng không biết vẽ, tôi vả cán bộ Thắng, vẽ những bức tranh,
phong cảnh như Vịnh Hạ Long, ngoài ra tôi còn làm những bích chương cho ngày lễ,
hay ngày Tết. Tôi không phải là hoa sĩ, nhưng có năng khiếu vẽ.
Có
lần Cán bộ Thắng trao cho tôi một quyển (lưu bút ngày xanh) của một em gái Nghệ
Tĩnh, em chính là người tình của cán bộ Thắng, Thắng không biết làm sao vẽ
trang trí cho quyển lưu bút, cán bô Thắng nhờ tôi, tôi từ chối, nhưng do sự
năng nỉ quá, cuối cùng tôi nhận lời vẽ đại. Sau khi vẽ xong vài trang trong quyển
lưu bút tôi trả lại, cán bộ Thắng vội mở ra xem, và nói
-
Anh Tuấn vẽ đẹp lắm, tôi sẽ đưa lại cho
cô ấy
Mấy
hôm sau cán bô Thắng cho tôi biết. Em gái nữ sinh
muốn
gặp tôi. Tôi vội từ chối ngay lập tức, vì tôi biết nếu dây dưa vào chuyện này
thì tôi lãnh một hậu quả, có thể do ghen tương rất nguy hiểm, và tôi đã thoát
được chuyện này, tuy nhiên tôi cũng nhận ra cô em nữ sinh của cán bộ Thắng, đã
nhìn lén tôi một cách thầm kín.
Những tháng ngày tiếp nối tại trại 3,
chỉ lả thời gian người tù sống trong tuyệt vọng, không biết đến bao giờ mới được
thả ra. Người tù bị giam cầm lâu năm, đã hóa thân thành loài vượn cổ xưa mà
không hề hay biết, vì yếu tố thời gian là sự gậm nhấm bào mòn, thầm lặng, cho đến
khi người tù chợt giật mình nhìn lại, nhận ra chính mình đã trải qua, một thời
gian qúa dài cho một đời người, phải sống lưu đầy trong những trại tập trung của
cộng sản.
Mùa
xuân sớm trở về, những chồi non bắt đầu nẩy mầm, cành hoa đào đã khoe sắc với
những nụ hoa xanh biếc, đang chuẩn bị nở hồng chào đón gió xuân. Ngày Tết sắp đến
gần, không khí trong trại 3, trở nên nhộn nhịp hơn, vì sự chuẩn bị cho ngày Tết
cổ truyền, thì bao giờ cũng vậy. Tâm trạng của Cán bộ coi tù, cũng xôn xao, do
đó có phần dễ dãi hơn, không qúa khắc khe như ngày thường.
Riêng
người tù, thì sự chuẩn bị cho ngày Tết, vô cùng đơn giản, anh em tù, cố kiếm
thêm, một nhúm thuốc lào, một nhúm trà (móc câu), để 3 ngày Tết, được nghỉ lao
động, ngồi nhâm nhi hụm nước trà, kéo một điếu thuốc lào, thổi một làn khói thuốc
vào không gian, mơ màng ngắm nhìn làn khói thuốc tan loãng biến mất vào không
gian, như chính niềm mơ ước, ngày được trở về xum họp với gia đình, mà người tù
hằng mong đợi, cũng sẽ tan biến đi trong tuyệt vọng.
Ngày
13 tháng 2 năm 1983, tức là ngày mùng một Tết năm Quý Hợi, đây là cái Tết đầu
tiên, anh em chúng tôi từ trại 6 chuyển đến trại 3 Tân Kỳ. Trong đêm Giao Thừa,
tôi và một số anh em thức suốt một đêm tới khi trời sáng, chúng tôi thức không
phải để đón Giao Thừa, thức vì không ngủ được, vì nỗi buồn nhớ nhà, vì những kỷ
niệm về ngày xuân khi sống bên mái ấm gia đình. Chúng tôi ngồi bên nhau, hát những
ca khúc về mùa xuân, hay kể cho nhau nghe, những câu chuyện của thời xa xưa.
Anh em chúng tôi đều có chung một tâm trạng, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ về mái ấm
gia đình.
Ngày
mai là ngày mùng một Tết, chúng tôi sẽ được nghỉ ăn Tết trong 3 ngày. Những
ngày nghỉ, cũng là những ngày vui, người từ đội này đến thăm viếng bạn bè từ những
đội khác, sẽ có nhiều chuyện để nói, và có rất nhiều tin tức vui buồn, được bàn
đến, trong đó có nguồn tin sau Tết sẽ có một đợt thả tù, mà lần này con số tù
nhân được thả khá đông có thể lên đến con số trên 20 người. Tin tức sắp có đợt
thả tù, cũng là một tin vui, có thêm một nguồn hy vọng, lóe sáng cho một tương
lai đen tối.
Ngày
Tết rồi cũng qua mau, mọi sinh hoạt trong trại tù sổ 3, bắt đầu như thường
ngày, mỗi buổi sáng, tất cả các đội tập họp trước sân và lần lượt từng đội với
sự hướng dẫn của công an, đi ra ngoài lao động.
Tôi
đến phòng vẽ của cán bộ Thắng, hôm nay tôi sẽ vẽ tiếp bức tranh phong cảnh Vịnh
Hạ Long, đang bỏ dở dang chưa hoàn tất. Trong lúc đang làm việc, có một cán bộ
công an bạn của cán bộ Thắng đến thăm, ông này cho tôi biết một tin vui.
-
Anh Tuấn này. Tôi thấy trong danh sách
thả lần này có tên anh.
-
Tôi nghe như một tin sét đánh ngang tai,
tự nhiên
trong
lòng tôi nó nôn nóng và bồn chồn vô cùng, sau đó tôi chấn tỉnh lại, và tự an ủi
biết đâu chỉ là một lời nói cho vui, không đúng sự thật.
Tôi
cám ơn người cán bộ đã cho tôi biết tin. Không
khí
mùa xuân vẫn còn phảng phất nơi đây, trong một không gian hơi lạnh vào buổi
sáng, và thường có những cơn mưa phùn bay lất phất.
Một
buổi sáng như thường lệ, tất cả các đội đều tập trung trong sân trại, nhưng hôm
nay có vẻ hơi lạ, vì sự hiện diện của vài cán bộ công an trên Ban Chỉ Huy có mặt,
họ cầm theo xấp hồ sơ.
Cán
bộ trại tuyên bố, hôm nay sẽ có một số trại viên được thả, những người có tên
sau đây sẽ đứng qua một bên.
-
Tôi nghe lời thông báo, mà lòng tôi bỗng dưng
bồn
chồn
lo lắng, vì chính tôi đã nghe một cán bộ trên Ban Chi Huy cho biết, tôi có tên
trong đợt tha này, tôi lo lắng vì không biết có đúng là sự thật, hay chỉ là một
giấc mơ mà bao năm qua, tôi đã từng nghe nhiều đợt đọc tên những người tù được
thả, nhưng không bao giờ có tên tôi.
-
Cán bộ Ban Chỉ Huy trại đọc thật to, tên
từng người
-
Tôi nghe có một vài anh em cùng trại 6 mới
chuyển về đây, cán bộ đọc tiếp
-
Dương Văn Chương (Chương dỏm), Phạm Trọng
Khiêm
(AET. Khiêm) và tiếp theo Anh Lê Quốc Tuấn, đúng tên tôi thật rồi, tôi mừng
quá, tâm hồn tôi như chết đứng vì niềm vui quá lớn đã tràn vào phủ kín, còn niềm
vui nào lớn hơn, khi người tù lâu năm nghe tên mình được thả, nó đến một cách
choáng ngợp, như chết đi sống lại, phải một lúc sau tôi mới bình tĩnh lại.
Tôi
và khoảng 25 người vừa được đọc tên, đứng sang một bên thành một nhóm. Trong
khi tất cả các đội lần lượt đi lao động, một số anh em cố quay đầu nhìn lại,
tôi thấy trong ánh mắt họ có những nỗi buồn thật xa vắng.
Cán
bộ nói với chúng tôi
-
Các anh về phòng lấy hành trang, khoảng
một tiếng
sau
sẽ có cán bộ hướng dẫn các anh lên Ban Chỉ Huy nhận giấy ra trại.
Tất
cả anh em chúng tôi trở về phòng, đem hết hành
trang
của một người tù ra phân chia cho những người bạn còn ở lại, như cái lon
guigoz, cái ca múc nước, cái nồi tự gò để đựng cơm, cái ống điếu cầy tự làm.
Tài sản lớn nhất của tôi là cây đàn guitar thùng, tôi cũng xin để lại cho những
anh em tù, cây đàn sẽ là niềm vui an ủi những người tù còn ở lại, tạm quên đi
ngày tháng.
Tôi mặc trên người bộ quần áo lính cũ
đã bạc màu, đó cũng là bộ quần áo tốt nhất mà tôi có, hầu hết những người được
về, đều không mang gì ngoài bộ quần áo mặc trên người.
Chúng
tôi tập trung trước cổng trại, cán bộ hướng dẫn chúng tôi lên Ban Chỉ Huy Trại,
tại văn phòng làm việc, từng người một bước vào văn phòng, được cấp một tờ giấy
ra trại, tờ giấy mỏng màu vàng úa, có in hàng chữ (Giấy Ra Trại) với tên họ, cấp
bậc và tôi danh Ngụy Quân. Tờ giấy này rất quan trọng, vì nó là sự chứng nhận
duy nhất về cá nhân của người tù, tờ giấy mỏng đến nỗi rất dễ rách, tôi phải
nâng niu cẩn thận gấp lại bỏ vào túi nilông vì sợ rách. Ngoài tờ giấy ra trại,
văn phòng Ban Chi huy còn cấp phát cho mỗi người chúng tôi một số tiền, gọi là
tiền tầu xe, coi như tiền để mua vé tầu về Sài Gòn.
Chúng
tôi đứng đợi trước cổng trại, nhìn khung cảnh trại 3 Tân Kỳ, một lần cuối, hai
hàng cây tỏa bóng mát, trên con đường đi vào cổng trại, có một vài đội tù, đi
lao động đang trở về, anh em nhìn thấy chúng tôi, họ vẫy tay chào tạm biệt, tôi
nhìn theo, những người tù tiếp tục lầm lũi bước vào cổng trại, tôi cảm thấy có
một điều gì đó thật xót xa cho thân phận những người bạn tù còn ở lại. Những
người tù không bản án, không biết đến bao giờ mới được về.
Có
một chiếc xe Molotova vừa chạy vào rồi dừng lại, cán bộ nói chúng tôi tập họp,
chuẩn bị lên xe, đây là chiếc xe chở tất cả những người tù mới được thả, sẽ đến
nhà ga thuộc thành phố Vinh.
Chúng
tôi lên xe mà trong lòng mọi người đều thoáng một niềm vui, nhìn trên gương mặt
ai cũng tươi vui, hớn hở, nở một nụ cười. Chiếc xe từ từ chuyển bánh, bỏ lại
phía sau hình ảnh trại tù số 3, trong làn khói bụi mịt mù, những đồi trồng trà
xanh bát ngát, những thửa ruộng lúa, ruộng trồng rau, như xa dần, chiếc xe chạy
vào thành phố Vinh, trên những con đường xe cộ tấp nập, chiếc xe dừng lại trước
cổng nhà ga Vinh, người công an lái xe mở cái bửng xe, cho anh em chúng tôi nhảy
xuống.
Người
công an chỉ tay về phía nhà ga và nói
-
Các anh vào nhà ga mua vé về Thánh phố Hồ
Chí Minh
-
Tất cả anh em nhảy xuống, nói lời cám ơn
cán bộ lái
xe.
Khung cảnh nhà ga, một buổi chiều muộn vừa tắt nắng, dưới những ánh đèn điện, tỏa
sáng màu vàng mờ nhạt, ánh đèn đêm đủ soi sáng một khoảng tối, để nhìn thấy cơn
mưa phùn với những giọt nước nhỏ li ti, đang nhẹ bay trong cơn gió mùa đông lạnh
lẽo, khung cảnh nhà ga Vinh trông thật ảm đạm, anh em chúng tôi kẻ ngồi, người
đứng trước cánh cổng khép kín của nhà ga, không biết cách nào để vào bên trong
mua vé, vì giờ này trời đã tối lắm rồi, nhân viên sân ga đã nghỉ làm, phòng vé
đã đóng cửa.
Trên vỉa hè còn một vài người bán hàng
nước, bán thuốc lá ngồi rải rác trong khu vực, họ nhìn chúng tôi và hỏi
-
Các anh là những người tù mới được thả
phải không
Chúng
tôi trả lời, dúng thế chúng tôi mới được thả từ trại 3 Tân Kỳ
-
Họ nói, giờ này nhà ga nghỉ rồi, phải chờ
đến sáng
Thôi.
Chúng tôi không biết làm gì, thì bỗng dưng có một cô gái đi đến gần.
-
Cô gái hỏi thăm chúng tôi, các anh có phải
là tù cải
tạo
mới được thả? Không đợi chúng tôi trả lời, cô gái nói tiếp. Các anh theo tôi,
tôi sẽ đưa các anh chui qua lỗ hàng rào, vào trong sân ga
Chúng
tôi mừng quá, tất cả anh em đi theo sự hướng
dẫn
của cô gái, quả nhiên bên bức tường, có một lỗ hổng đủ cho một người chui qua,
tất cả chúng tôi lần lượt chui qua lỗ chó, đi vào tận bên trong sân ga, cô gái
chỉ đường rất tận tình giúp chúng tôi.
-
Cô gái nói tiếp.
Các
anh phân tán mỏng ra ngồi từng toán nhỏ trên
sân
ga, vào khoảng 12 giờ đêm nay, có một đoàn tầu đi về Sài Gòn, sẽ dừng lại tại
sân ga, để xuống hàng. Khi tầu dừng lại các anh cứ nhảy lên bất cứ toa nào dừng
trước mặt, đừng dồn qúa đông lên một toa.
Cô
gái còn cho biết thêm một chi tiết rất quan trọng, đoàn tầu này, toàn bộ nhân
viên phục vụ là người miền Nam (người Sài Gòn).
Chúng
tôi rất vui khi nghe cô gái nói như thế. Chúng tôi rất biết ơn cô gái người Nghệ
An, một thiếu nữ rất tốt bụng, biết cảm thông với những con người cùng khổ như
chúng tôi. Qua hoàn cảnh của cô, tôi nghĩ chắc cuộc sống của cô, cũng không may
mắn lắm, nên phải bon chải kiếm tiền vào ban đêm như thế.
Xin
cám ơn cô gái Nghệ An, với một tâm hồn bao dung, cô đã giúp chúng tôi mà không
hề đòi hỏi phải trả ơn, một cô gái rất bình thường, nhưng tâm hồn không bị nhuộm
đỏ, bởi lòng hận thù. Cô chính là ân nhân của chúng tôi.
Nhóm của tôi khoảng 5 người gồm có,
tôi (Lê Tuấn) và Chương Dỏm, Phạm Trọng Khiêm cùng với 2 người nữa (quên tên),
chúng tôi chọn đại một vị trí ngồi trên sân ga. Trên sân ga có những người bán
nước trà nóng, bán thuốc lá, thuốc lào, họ kê một cái bàn thấp với ngọn đèn dầu
leo loét, người đàn bà bán hàng ngồi co ro, trong cơn gió lạnh đang thổi về,
mang theo hạt nước mưa, càng về đêm không khí càng lạnh hơn, cảnh vật trên sân
ga trông càng ảm đạm và thật buồn, cho những con người còn thức chờ chuyến tầu
về đêm, với hy vọng kiếm thêm ít tiền từ việc bán hàng cho khách đi tầu.
Không khí trên sân ga bỗng dưng nhộn
nhịp hơn, những người bán hàng nói với nhau, đoàn tầu sắp về đến ga, vì họ qúa
quen thuộc với giờ giấc tầu đi, một lúc không lâu sau đó, chúng tôi nghe tiếng
đoàn tầu đang đến gần, một luồng ánh sáng đèn pha rọi thẳng vào đường ray, con
tầu đồ sộ tiến vào sân gà, tiếng bánh sắt cọ sát trên đường ray, rít lên một âm
thanh chói tai và con tầu dừng lại.
Trước mặt tôi là một toa tầu, tất cả cửa
sổ toa tầu đóng kín, không cần biết đó là loại toa tầu nào, tất cả 5 người
chúng tôi đều nhảy lên phía đầu ráp nối của hai toa, cánh cửa toa đóng chặt,
chúng tôi gõ cửa xin vào, tiếng gõ cửa càng mạnh hơn, có tiếng người từ bên
trong nói vọng ra,
-
Giờ này cửa toa đóng rồi, không đi nhờ
gì hết, hãy đi nơi khác
-
Chúng tôi nói thật to, chúng tôi là những
sĩ quan tù cải tạo, mới được thả, xin đi nhờ.
-
Nghe giọng nói con gài miền Nam, hỏi vọng
ra, các chú là tù cải tạo người miền Nam
-
Đúng vậy. Xin cô mở cửa cho chúng tôi đi
nhờ, chúng tôi trả lời
-
Cánh cửa toa mở ra, người thanh niên và
cô gái miền
Nam
nhìn thấy chúng tôi, họ nhận ra, quả đúng là những người tù cải tạo. Cô gái và
người thanh niên, mời anh em chúng tôi vào bên trong, khi vào bên trong toa,
tôi mới biết đây là toa (căng tin), toa nhà hàng (Ăn uống). Nhân viên phục vụ
trên toa này toàn là thanh niên, thiếu nữ người miền Nam, họ cho biết gia đình
họ cũng có những người thân đi cải tạo, do đó họ rất thông cảm với hoàn cảnh những
người như chúng tôi.
Anh chị em phục vụ trên toa tầu, đều
thức dậy, nhìn chúng tôi, tất cả đều có một sự thông cảm, thương mến chúng tôi.
Anh chị em phục vụ cư sử rất tốt, mời chúnh tôi đến ngồi một góc trên toa, các
cô gái phục vụ, pha cho chúng tôi mỗi người một ly cà phê sữa đá, và cho chúng
tôi mấy gói thuốc chia nhau hút, các cô cũng ngồi bệt xuống sàn toa tầu, cùng
nói chuyện và hỏi thăm chúng tôi.
Con tầu dảm tốc độ từ từ chạy vào sân
ga Huế và dừng lại, cảnh nhộn nhịp tại sân ga, những người buốn bán lẻ mời
chào, đủ thứ loại quà bánh, một số hành khách xuống sân ga, và một số hành
khách lên tầu.
Lần
đầu tiên sau 8 năm tù đầy, tôi mới thấy lại khung cảnh nhộn nhịp này, lòng tôi
lại nôn nao, không biết gia đình mình ra sao, chắc là mọi người trong gia đình,
không ai biết tôi đang trên đường trở về nhà.
Đang
suy nhĩ miên man thì một tay công an xuất hiện đi đến chỗ anh em chúng tôi đang
ngồi, tay công an lên tiếng.
-
Các anh này đưa giây tờ đây, ai cho các
anh ngồi chỗ này
-
Các cô nhân viên quá quen với thái độ của
những tay
công
an đường sắt, các cô xúm vào nói giúp chúng tôi. Các cô nói, họ là những người
tù cải tạo mới được thả, chúng tôi giúp họ.
-
Tay công an vì quá quen thuộc với các cô
gái, nên có vẻ chần chừ rồi lên tiếng.
-
Thôi được rồi, nhưng mấy người này phải
ra ngoài đầu toa ngồi, không được ở bên trong.
Anh
em chúng tôi đi ra ngoài chỗ ráp nối của hai toa
tầu
ngồi, chỗ này cũng thoải mái vì ở bên ngoài, hứng gió mát và ngắm cảnh trên đường
tầu. Một lúc sau khi con tầu chạy ra khỏi nhà ga Huế, các cô phục vụ lại ra
ngoài cùng ngồi với chúng để nói chuyện cho vui. Đến giờ ăn, các cô mang cho
chúng tôi những phần cơm sườn và trứng rất ngon, nó như một bữa tiệc thịnh soạn
mà trong suốt 8 năm qua chúng tôi chưa bao giờ được ăn như thế.
Trong
suốt đoạn đường về đến Sài Gòn, anh chị em phục vụ tại toa (Căng tin) đã giúp đỡ
chúng tôi rất nhiều, đã cho chúng tôi những bữa ăn, hoàn toàn miễn phí. Anh chị
em đã cư sử với chúng tôi như người thân trong một đại gia đình, đại gia đình
đó chính là Miền Nam Tự Do.
Chúng
tôi rất biết ơn những anh chị em này, đã cho đi mà không hề đòi hỏi bất cứ một
điều kiện nào.
Con
tầu dừng lại tại ga Bình Triệu, tất cả anh em chúng tôi, những người đi nhờ tầu
(không có vé) đều xuống ga Bình Triệu. Chúng tôi đã được anh chị em phục vụ
trên tầu hướng dẫn, nên xuống đây vì ở nhà ga nhỏ không bị kiểm soát vé tầu như
ở nhà ga chính, đó là ga Sài Gòn.
Khi
chúng tôi bước xuống sân ga Bình Triệu, thì trời cũng đã về chiều. Tôi và anh
Phạm Trọng Khiêm đi chung với nhau, anh Khiêm nói, nhà anh ở tận miền Tây, sáng
mai mới ra bế xe đò đi về nhà.
Tôi
nói với anh Khiêm nên về chung với tôi, ở tạm
nhà
tôi qua đêm, sáng sớm hôm sau ra bến xe đò đi về nhà. Anh Khiêm đồng ý, hai anh
em chúng tôi đứng lớ ngớ tại cổng nhà ga, một người chạy xe xích lô đạp, đến hỏi
chúng tôi đi đâu, tôi nói đi về Xóm Gà, Gia định, anh ta nói cũng gần đây và mời
chúng tôi lên xe.
Sau 8 năm tù trở về nhà, tôi hoàn toàn
mất phương hướng, đường phố trở nên xa lạ, tôi không còn biết đi hướng nào về nhà,
cuối cùng tôi đồng ý lên xe xích lô, đưa tôi về Xóm Gà. Trong khi ngồi trên
xích lô, nhìn dóng xe cô ngược suôi, tôi cũng rất thông cảm cho những người đạp
xích lô, mỗi lần xe lên dốc cầu, hai anh em chúng tôi đều nhảy xuống để đẩy phụ
xích lô lên dốc cầu cho nhẽ nhàng hơn, tôi không biết cử chỉ này của anh em chúng
tôi có làm người đạp xích lô, có một chút nào đó của lòng thương cảm
Trong xã hội thì luôn luôn có những
người sấu, họ sẽ lợi dụng bất cứ sơ hở nào có thể kiếm tiền, người thanh niên đạp
xích lô mà tôi đã chọn lầm, chính là người không tốt, anh ta nắm bắt được sự
ngơ ngác của chúng tôi, anh ta đã chặt đẹp, tính giá cắt cổ cho một cuốc xe.
Khi về đến nơi, tôi đã phải móc hết tiền túi để trả cho anh ta, khi vừa nhận tiền,
như sợ bị đòi lại, anh ta phóng lên xích lô, đạp thật nhanh mất hút trong dòng
xe cộ đông đúc.
Một buổi chiếu tắt nắng, bầu trời bắt
đầu tối dần. Tôi cùng anh Khiêm bước vào con hẻm nhỏ đi về nhà.
HẾT
Ghi Chú:
Tôi
viết câu chuyện này như một hồi ký của người tù cải tạo. Tôi đã cố gắng liên lạc
với một số anh em bạn tù để hỏi thăm, mỗi người, mỗi nhân chứng nhớ một ít, rồi
gom lại thành câu chuyện. Nếu có thiếu sót, chỉ vì người viết không nhớ hết, do
đó có những chi tiết không đúng lắm, mong quý đọc giả bỏ qua cho.
Với
sự đóng góp thêm nhiều chi tiết, như ngày tháng, nơi chốn, đia danh
Của
các anh em cùng hoàn cảnh với tôi như:
-
Cựu TSQ Thiếu Úy Lôi Hổ Lâm Ngọc Chiêu
-
Thiếu Úy Lê Anh Thượng
-
Đại Úy Nhà thơ Nguyễn Thượng Dực
-
Đại Úy Nhà Văn Nguyễn Trung Dũng.
Rất
cám ơn các anh đã giúp tôi gợi nhớ lại, những chi tiết để hoàn tất một câu chuyện
khá dài, xem như một tư liệu sống, của những trại tù cải tạo, từ
Nam ra Bắc, một tư liệu cần ghi dấu lại, trong một giai đoạn lịch sử, dưới thời
cộng sản Việt Nam đang thống trị. Để lưu lại cho mai sau, còn những ai muốn đọc
và tìm hiểu thêm về một gia đoạn. Những trại tập trung khổng lồ tại Việt Nam.
San
Jose, November 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét