Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 18 tháng 2, 2015

Trung Cộng đánh chiếm VN năm 1979

Bài học "đồng minh" từ năm 1979

image
Người dân xuống đường nhân 35 năm Cuộc chiến Biên giới
36 năm đã trôi qua nhưng cuộc đánh trả chiến tranh xâm lược được Trung Cộng phát động vào ngày 17-2-1979 vẫn luôn hiện diện trong những người Việt Nam yêu nước, nhất là vì nó mang tính thời sự sâu sắc khi Trung Cộng không ngừng xâm phạm chủ quyền biển cũng như đe dọa dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

image
Để giải cứu đồng minh Khme Đỏ tại Cambodia sau khi chế độ diệt chủng của lực lượng này bị quân đội Việt Nam đánh đổ vào ngày 7/1/1979, lãnh đạo Trung Cộng Đặng Tiểu Bình đã quyết định điều một lực lượng lớn quân đội đánh thẳng vào Việt Nam trong khuôn khổ cái gọi là “chiến tranh hạn chế” hay “dạy cho Việt Nam một bài học” nhằm buộc Việt Nam rút quân khỏi Canbodia, đúng kế sách “Vây Ngụy cứu Triệu” mà Tôn Tẫn áp dụng 2.500 năm trước.

image
Khi 300 nghìn quân Trung Cộng đồng loạt tràn qua hơn 1000 km biên giới, phía Việt Nam chỉ có khoảng 70 nghìn quân chủ lực, còn lại là dân quân bởi như đã rõ, đa phần quân chủ lực Việt Nam đang chiến đấu ở Cambodia.

image
Chính Đặng Tiểu Bình đã nói trong một bài phát biểu: “Lần đánh này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”. Tất nhiên với so sánh lực lượng quân sự như vậy, Trung Cộng hoàn toàn tin tưởng rằng mưu đồ của họ sẽ thành công.
Thế nhưng ngày 5-3, tức chỉ sau 17 ngày tiến hành chiến tranh, Trung Cộng đã phải tuyên bố chấm dứt cuộc chiến và rút quân khỏi Việt Nam cho dù quân đội Việt Nam vẫn hiện diện ở Cambodia.

Nguyên nhân thất bại

image
Phân tích thất bại của Trung Cộng trong cuộc chiến tranh này, người ta thường nêu những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, quân đội Việt Nam cộng sản vừa thắng Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nên kinh nghiệm chiến trường của họ hơn hẳn quân đội Trung Cộng vốn không tham gia cuộc chiến tranh lớn nào kể từ sau chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953.

Thứ hai, chiến tranh xảy ra ở vùng rừng núi nên quân đội và dân quân ViệtNam đã tận dụng được địa hình hiểm trở để đánh trả hiệu quả, gây thiệt hại lớn cho quân Trung Cộng.

image
Ở Trung Cộng có nhiều nghĩa trang của các 'anh hùng' trong cuộc chiến chống Việt Nam
Thứ ba, Việt Nam được Liên Xô với tư cách đồng minh quân sự yểm trợ.
Thực vậy, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện được ký giữa hai nước vào ngày 3/11/1978 là một hiệp ước liên minh quân sự vì Hiệp ước có điều khoản “Trong trường hợp một trong hai bên bị tấn công, hoặc bị đe dọa tấn công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.

Cũng cần nói thêm rằng Hiệp ước chỉ là cái kết tất yếu của việc Việt Nam “nhất biên đảo”, ngả hẳn sang Liên Xô trong tranh chấp Xô – Trung để đổi lấy sự bảo trợ cả về kinh tế và quân sự của Liên Xô chống lại sự thù địch của Trung Cộng không cam chịu chấp nhận một Việt Nam thống nhất từ 1975.

Vậy nguyên nhân nào là quan trọng nhất?

image
Trước hết, cho dù Việt Nam có kinh nghiệm chiến trường hơn hẳn Trung Cộng thì với số quân đông gấp bội Trung Cộng có thể dùng chiến thuật “biển người” để lấy lại thế cân bằng chiến trận.
Còn nói quân Việt Nam tận dụng được địa hình rừng núi để gây khó khăn lớn cho quân Trung Cộng thì cũng không hẳn bởi không thể nói quân Trung Cộng không có kinh nghiệm tác chiến nơi địa hình hiểm trở khi giáp giới với Việt Nam cũng là vùng rừng núi.

image
Bằng chứng là quân Trung Cộng cuối cùng cũng đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn là những mục tiêu mà Đặng Tiểu Bình ngay từ đầu đã đề ra.
Do đó, sự yểm trợ quân sự của Liên Xô đóng vai trò quyết định trong việc buộc Trung Cộng chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Vai trò của Liên Xô

Trước hết, trong gần một tháng chiến tranh Liên Xô đã cho một số phi đoàn vận tải (An-12 AN-26, MI-8...) không vận 20 nghìn quân Việt Nam cùng các trang thiết bị chiến đấu từ Campuchia trở về miền Bắc Việt Nam để tổ chức phòng thủ và phản công.

image
Cũng trong giai đoạn này bằng đường biển, Liên Xô đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Bên cạnh đó, Liên Xô cũng đã tham chiến với việc điều 30 tàu chiến vào biển Đông để ngăn hạm đội Nam Hải của Trung Cộng tập kích Việt Nam.
Không những thế, ngày 22 tháng 2, Tùy viên quân sự Liên Xô tại Việt Nam cảnh cáo: “Liên Xô sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết trong Hiệp ước hữu nghị và hợp tác đã ký với Việt Nam.

Nhưng xung đột vẫn có thể giới hạn được, Liên Xô cũng không muốn có một cuộc chiến tranh”.

Như vậy Trung Cộng đã nhận được một cảnh cáo rõ ràng từ phía Liên Xô rằng nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải đối mặt với một cuộc tấn công của Liên Xô vào lãnh thổ Trung Cộng, đúng với cái cách Trung Cộng đã tấn công Việt Nam để giải cứu đồng minh Khme Đỏ của nước này ở Cambodia đang bị quân đội Việt Nam truy diệt.

image
Ngay ngày hôm sau, 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn nhằm ngăn Liên Xô tấn công vào Trung Cộng. Đến ngày 5/3 Trung Cộng chính thức tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam.

Để gia tăng áp lực buộc Trung Cộng chấm dứt chiến tranh một cách thực sự, từ 12 đến 26 -3 - 1979, Liên Xô đã tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới với sự tham gia của các quân khu phía Đông áp biên giới với Trung Cộng, các đơn vị đóng tại Mông Cổ và Hạm đội Thái Bình Dương với tổng quân số lên tới hơn 200.000 quân. Kết quả là ngày 16/3/1979, Trung Cộng về cơ bản đã rút quân khỏi Việt Nam.

Liên minh quân sự

Như vậy, bài học lớn nhất cho Việt Nam từ cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược năm 1979 là Việt Nam buộc phải có liên minh với cường quốc quân sự thì mới bảo vệ được lãnh thổ của mình trước xâm lược của cường quốc quân sự khác.
Bài học này càng trở nên hiển nhiên trong bối cảnh cuộc xâm lược sắp tới của Trung Cộng là nhằm vào quần đảo Trường Sa, tức diễn ra trên biển nơi mà học thuyết “chiến tranh nhân dân” của Việt Nam gắn với địa hình hoàn toàn bị vô hiệu.
Nói cách khác, Việt Nam không thể không khẩn cấp tìm cường quốc quân sự để liên minh trước khi mọi cái trở nên quá muộn. Thực ra trong kịch bản này ViệtNam không có sự lựa chọn nào khác ngoài Mỹ.

image
Hoa Kỳ hiện là lựa chọn duy nhất của Việt Nam nhằm cân bằng lại với Trung Cộng
Thực vậy, với chiến lược xoay trục quân sự sang châu Á mà Tổng thống Mỹ Obama đưa ra đầu năm 2012 mà tôi gọi là “Obamasia”, Mỹ là cường quốc duy nhất chủ động ngăn chặn bành trướng quân sự của Trung Cộng trong khu vực.

http://baomai.blogspot.com/
Việc Thượng viện Mỹ ra nghị quyết về Biển Đông theo đó Mỹ chống lại mọi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và chủ trương tự do hàng hải là bằng chứng hùng hồn nữa về quyết tâm quân sự mới của Mỹ ở thế kỷ XXI.
Thế nhưng liên minh quân sự với Mỹ sẽ không bao giờ thực hiện được chừng nào Việt Nam còn duy trì chế độ độc tài cộng sản.

http://baomai.blogspot.com/
Điều này có nghĩa để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa nói riêng, lãnh thổ quốc gia nói chung trước xâm lược và đe dọa xâm lược của Trung Cộng, chính quyền Việt Nam không còn con đường nào khác là phải dân chủ hóa chế độ chính trị mà khởi đầu là bảo đảm tự do ngôn luận và các nhân quyền cơ bản khác được ghi trong Hiến pháp song song với việc trả tự do vô điều kiện cho tất cả những người bất đồng chính kiến bị cầm tù để rồi tiến tới tổ chức bầu cử tự do với sự tham gia của nhiều đảng phái, tương tự những gì đã và đang diễn ra tại một nước Đông Nam Á khác vốn có cùng chế độ độc tài là Myanmar.

http://baomai.blogspot.com/
Tưởng Nim 36 năm trn chiến biên gii

Dân ta trong ki
ếp lm than
Vi
t Nam tan nát, quê hương rã ri
Ngày này tr
n chiến tơi bi
B
ăm sáu năm trước, hi ôi kinh hoàng
Gi
c thù nhung nhúc tràn sang
Chúng đông nh
ư kiến sáu mươi vn người
Gi
c v tanh tưởi máu tươi
Quân thù máu đ
, quân nhà tan thây
Th
ương thay, nhng vũng sình lyĐó là xác tr, người già , dân đen
Th
ương thay nhng phn thp hèn
Phong ba b
ng ni, c làng phanh thây!
Vi
t Nam ơi hi máu nhy
Trên cây đ
u gic, hay đu Vit Nam?!
Vi
t Nam chưa hết kinh hoàng
M
t vùng tang trng, bc phn Vit Nam
Vi
t Nam tôi quá điêu tàn
Quê h
ương thng kh, đo đy trn gian
Ngày nay trang s
 viết càn:
" D
y cho bài hc, hi quân bc tình"
M
t câu nói, giết dân mình
Bao nhiêu lính g
c, xác dân chôn vùiĐảng kia cái đng "chn lùi"
C
ũng vì ch nghĩa, gây bao kinh hoàng
Ch
t đu, m bng, móc gan
Xe t
ăng cán xác, xác người nát tan
Bao nhiêu thi
ếu n trong làng
Không còn manh áo, ru
t gan đùm đ
Nhìn kia nh
ng cnh tái tê
Cô kia xinh đ
p, xác trn còn đâu?!
Còn l
i có mi đu lâu
Xác thân tan nát, trên cành cây cao
Nhìn đây cho rõ nhìn vào
M
t thân ph n ch còn mình thôi
L
ũ quân Tàu Mán quá tiĐôi châđã mt, tay ôi không cònĐầu cô cũng mt, vú còn l sâu!

Vi
t Nam hi, hãy hn căm
Càng c
ăm, càng hn, đng lên làm người
Vi
t Nam quyết phi xinh tươi
Quê h
ương quyết phi rng ngi s xanh
Còn loài c
ng ph hôi tanh
Máu minh còn đ
 quê mình tan thương
Vi
t Nam ta đã t tường
Ngo
i lai ch nghĩa dit vong dân tình
Vi
t Nam phi t cu mình
Toàn dân đ
ng dy, quyết tâm mt lòng!
Hoàng Hạc

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét