Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 17 tháng 1, 2018

Những bài thơ 7 chữ)

Góp vui cùng quý vị Văn Thi Hữu (Những bài thơ 7 chữ)  tôi đã viết từ lâu, mời quý vị đọc cho vui.
Lê Tuấn (người thích làm thơ cho vui)

Chờ mãi phố buồn đến ngẩn ngơ
 
Em đi mang cả hồn trinh nữ  
Cả dáng ngây thơ nét thẹn thùng  
Áo em lụa mỏng bay trong nắng  
Làm chết hồn anh đến lạnh lùng  

Con đường vắng bóng em hôm nay  
Sao đắng vành môi quán vắng người  
Em còn đến lớp hay thôi học   
Chiều nhớ mong hoài em có hay  

Hôm nay ra phố đợi em về  
Mà lòng rạo rực với đam mê  
Con đường đến lớp sao trống vắng  
Em đã đi rồi bao tái tê  

Em đi bỏ lại con đường thơ 
Phượng hồng rũ cánh ngả nghiêng chờ  
Nắng xuyên kẽ lá chờ em đến 
Chời mãi phố buồn đến ngẩn ngơ.

Lê Tuấn (viết trong tuổi học trò)
 Vọng cố nhân về

Lá sớm chuyển mầu khoác áo thu
Một giải giang sơn bóng sương mù
Rừng phong phai sắc mầu thương nhớ
Nhuộm tím chiều hoang, mây viễn du.

Ngọn gió vô tình lá thu bay
Vô thường mê khúc, vọng nơi đây
Buồn như vừa chạm mầu sương trắng
Cho nhớ thương về cuối chân mây.

Mái đầu sương điểm tóc nhạt phai
Một khối tình riêng nhớ thương hoài
Hồ thu liễu rũ bên đồi vắng
Vọng cố nhân về, chốn thiên thai.


Lê Tuấn

Vội vàng đi

Vội vàng lau, mầu son phấn quen
Vội vàng đi che dấu muộn phiền
Em đã đến, đong cho đầy nỗi nhớ
Để buồn rơi trong ly rượu lãng quên.


Chiều chậm rơi nhìn theo bóng em
Nhẹ nhàng thôi bước chân qua thềm
Trong nỗi nhớ còn thơm mùi son phấn
Mà hoàng hôn, vội che khuất bóng đêm.

Lê Tuấn

Bài thơ không nghĩ suy


Chợt nhớ mùa thu tôi gặp em
Áo trắng em bay suối tóc mềm
Đôi môi hồng đỏ hương trinh nữ
Xao xuyến hồn tôi dáng dịu hiền.

Gió Thu đùa nhẹ tóc em bay
Tiên nữ nơi đâu đến chốn này
Nắng xuyên áo mỏng bờ da trắng
Nửa như che dấu nửa phơi bày.

Đường cong con gái tuổi dậy thì
Đã làm điêu đứng mối tình xi
Em là hoa mộng chiều Thu tím
Là áng văn thơ, không nghĩ suy.

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2018

Những phá cách tài tình trong thơ

Cám ơn nhà thơ Ngô Đình chương đã chuyển tiếp bài viết này (Những phá cách tài tình trong thơ) của Huệ Thu, bài viết này rất hay, tôi rất thích ý tưởng trong bài viết này. "Thật ra luật chỉ làm cho người thơ dễ đạt được ý thơ. Thơ hay không hẳn vì niêm luật." "Hồn thơ là cái duyên của thơ. Thơ không có hồn như người không có duyên". Theo tôi luật thơ chỉ giúp người làm thơ dễ đạt được ý thơ, để thi sĩ có thể gửi hồn vào những vần thơ, mà thoe tôi nghĩ điều quan trọng nhất của bài thơ là (trong thơ phải có tiếng nhạc) thơ mà thiếu đi nhạc điệu thì dù có đúng niêm luật, khi đọc lên nghe cũng chán lắm, làm sao có thể đưa hồn và tiếng nhạc vào từng ngôn ngữ, cũng như người nhạc sĩ sử dụng từ ngữ cho đúng âm giai của từng nốt nhạc. Thơ Đường là loại thơ 7 chữ, tôi thích dùng từ ngữ (thơ 7 chữ) hơn từ "thơ đường" vì Việt Nam không có nhà Đường "ba tầu" VN có Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo và gần nhất là Quang Trung Nguyện Huệ, đánh cho quân Thanh tan tành và Càn Long bên Tầu phải sợ, và tôi cũng chán đọc những bài thơ viết đầy "điển tích ba tầu". Lịch sử VN có biết bao nhân tài sao không mượn mà phải mượn điển tích "ba tầu". Đây cũng chỉ là quan niệm của riêng tôi về ý tưởng vay mượn điển tích (ba Tầu) đem vào thơ để chứng tỏ sự uyên thâm.

Cũng như gần đây Ông Tiến Sĩ Ngáo Đá Bùi Hiền, xin mở ngoặc (chữ ngáo đá là từ ngữ mới nẩy sinh tại VN để ám chỉ những người phê ma túy đá đến mức độ mất hết ý trí). Ông Ngáo Đá Bùi Hiền này cũng thế (nhặt được cái bằng tiến sĩ made in China) rồi cả đời nghiên cứu chữ viết để chuyển đổi theo âm điệu của (Ba Tầu). Ngay từ phần căn bản nhất khi ông "ngáo đá" này, lập luận đã sai hoàn toàn.
 
Ông ngáo đá Bùi Hiền cho rằng ngôn ngữ Việt Nam là  ngôn ngữ (Tượng Thanh) Đây chính là cái sai từ trong căn bản nhất của ngôn ngữ tiếng Việt, mà ông ngáo đá Bùi Hiền không nhận ra. Tiếng Việt Nam được giới ngôn ngữ thế giới xếp vào loại ngôn ngữ (Thanh Điệu) "Tonal Languege" vì trong ngôn ngữ tiếng Việt có 6 thanh điệu khác nhau (sắc, huyền, hỏi ngã, nặng và không dấu) nó giống như 8 nốt nhạc " đồ, rê, mi, pha, sol, la, si, đố", do đó ngôn ngữ tiếng Việt rất giầu tính âm nhạc.

Ngôn ngữ mang tính chất quy ước:
Học ngôn ngữ là chấp nhận cái mà cộng đồng ngôn ngữ đó đã quy ước, nó bất chấp tính chất bất hợp lý.
Chí
nh người Trung Hoa họ đã từng thử thay thế chữ viết "tượng hình" của họ bằng chữ "La tinh" nhưng không được vì tính chất quy ước quá cao của ngôn ngữ. 
Vậy thì tạo sao ông Tiến Sĩ Ngáo đá Bùi Hiền lại muốn thay đổi chữ Việt để làm gì??? phại chăng để thỏa mãn cơn ngáo đá và cũng để (nâng bi, bợ đít mấy thằng ba tầu theo cách phát âm lớ lớ tiếng Chệt. 

Kế Luận: Đảng cộng sản VN đã nâng cấp hồ chí minh lên hàng thần thánh, chính ông thần này đã sửa đổi chữ viết theo cách mới, nhưng không ai nghe và cũng không ai viết theo cách đó, huống chi ông ngáo đá "buồi hiền", tôi tin rằng công trình nghiên cứu ngáo đá của ông thần này cũng sẽ được "lông kiếng" liệng cống.

Tàn mạn một chút mà đã đi ngoài đề tài chính viết về (Những phá cách tài tình trong thơ
"Hồn thơ phóng túng bay ngàn hướng ...
Tứ nhạc thâm sâu trải vạn phương ..." 
Trước khi chấm dứt bài viết tôi xin được góp tiếng qua bài thơ "Lục bát" một thể thơ duy nhất chỉ có tại Việt Nam, trên thế giới chưa có một ngôn ngữ nào có thể viết được những vần thơ Lục bát. 
 
Như bóng mây mờ

Tai nghe tiếng vọng đất trời
Xa xăm chợt đến bên đời hợp tan
Nỗi niềm thân phận chứa chan
Cõi lòng chuyển động, dâng tràn cơn đau.

Sớm hôm Nhật Nguyệt bên nhau
Cho dòng tâm thức thâm sâu tự hào
Dù cho đời có ra sao
Cũng xin góp tiếng thơ vào trần gian.

Mái xưa lợp cỏ rơm vàng
Dưới hiên ngôn ngữ rộn rà
ng gieo thơ
Phù du như bóng mây mờ
Nhân sinh bước đến cõi bờ hư vô.

AET Lê Tuấn

Hi Thăm
Hỏi Thơ ! lục bát thở dài
Biết còn ai đọc, biết ai chạnh lòng
Thương sao ngôn ngữ lưu vong
Thương câu lục bát hoài mong quê mình.

Hỏi thăm Trời Đất chuyện tình
Vì sao lỗi hẹn chúng mình ngẩn ngơ
Đá nằm cổ mộ hoang sơ
Dấu xưa phế tích phủ mờ rêu phong.

Hỏi thăm ngọn cỏ phiêu bồng
Bước về chốn cũ, cõi lòng còn thương
Trải qua trăm mối đoạn trường
Chiều nghiêng xế bóng tà dương khuất mờ.

Hỏi em sao qúa hững hờ
Tình xưa quên dấu bây giờ về đâu
Từ khi Trời Đất thay màu
Nhớ thương ở lại, lòng sầu riêng mang.

Đất Trời vừa trộn đá vàng
Thơ vào ngôn ngữ vỗ tang trống rền
Phiêu bồng theo dấu chân quen
Em về hoa nở màu sen trắng ngà.

AET. Lê Tuấn
Tháng 7. 2015

Chuyển tiếp bài viết tác giả Huệ Thu
 K. gửi : Quý bạn thích thơ Đường
Xin khuyên mấy vị nghiện thơ Đường

Nên đọc Huệ Thu bỏ nết ương :
Chớ thấy sai niêm mà bảo dở ...
Đừng nhìn trật luật để coi thường ...
Hồn thơ phóng túng bay ngàn hướng ...
Tứ nhạc thâm sâu trải vạn phương ...
Bằng trắc khó mà giam giữ nổi
Ngựa thần vùng vẫy chẳng dàm cương  !

LTĐQB


 NHỮNG PHÁ CÁCH TÀI TÌNH TRONG THƠ

» Tác giả: huệ thu
» Dịch giả:
» Thể lọai: biên khảo
» Số lần xem: 23257

1. NHỮNG PHÁ CÁCH TÀI TÌNH TRONG THƠ

Bài Viết Huệ Thu


 Thuở Sơ Ðường người ta làm thơ không chú trọng nhiều về luật. Thật ra luật chỉ làm cho người thơ dễ đạt được ý thơ. Thơ hay không hẳn vì niêm luật. Những bài thơ của các vị Tam Khôi (Tam Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) hẳn là rất đúng niêm luật..... Nhưng những bài thơ ấy vị tất là những bài thơ hay ! Chứng cớ là sau những lần yết bảng, vua thường thiết yến đãi các quan tân khoa. các vị tam khôi đều có làm thơ lưu niệm. Nhưng cho đến nay thứ thơ lưu niệm ấy ít ai còn nhớ lấy dù chỉ một bài ! Vậy thì thơ hay không phải vì đúng luật.... Chẳng qua chỉ là một lối thơ trong trường ốc thì phải câu nệ vào luật . Không thế thì làm sao mà chấm ? Luật để làm tiêu chuẩn cho mọi sự phê phán. Nhưng những người làm thơ hẳn là phải đồng ý với nhau rằng thơ muốn hay trước hết phải có hồn. Hồn thơ là cái duyên của thơ. Thơ không có hồn như người không có duyên. Vô duyên thì đẹp mấy cũng không ai chuộng ! Hồn thơ xuất phát từ sự chân thành, sự giản dị. Hít thở làm nên sự sống, nhưng hít thở phải không cầu kỳ, phải thật tự nhiên thật giản dị. Nằm có cách hít thở của lúc nằm, ngồi có cách hít thở của ngồi, đứng cũng thế. Ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, cho đến lục bát, song thất... mỗi thứ đều có một lối luật riêng... Lối thở của lúc đứng khác lối thở của lúc nằm. Luật thơ Lục Bát khác xa luật thơ Ðường. Nhưng vẫn là luật nghĩa là những phép tắc riêng giúp cho người thơ đạt được ý thơ. Cho nên cái tài tình của người thơ là biết phối hợp các thể thơ. Tôi xin mượn một bài thơ của Tản Ðà làm ví dụ. Tôi nghĩ Tản Ðà là một thi sĩ thượng thặng của Việt Nam. Ông là người thông thạo thập bát ban võ nghệ. Có nghĩa là lối thơ nào ông cũng rành cả. Cho nên trong một bài thơ ông phối hợp nhiều thể thơ, phối hợp một cánh rất tài tình, rất tự nhiên, đó là bài Cảm Thu, Tiễn Thu, Ông mở đầu bằng:

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Trăng thu bạnh
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi tụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Ðêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đậu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lí tha phương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai?

Nào những ai:
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng
Ðường mây chưa bổng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.

Nào những ai:
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi,
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.

Nào những ai:
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha,
Ruột tằm héo, tóc sương pha,
Góc phần trạnh tưởng quê nhà đòi cơn.

Nào những ai:
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!

Nào những ai:
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ hoa ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông trăng dãi con thuyền chơi vơi!

Nào những ai:
Dọc ngang trời rộng,
Vùng vẫy bể khơi
Ðội trời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.

Nào những ai:
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Thôi nghĩ cho:
Thu tự trời,
Cảm tự người.
Người đời ai cảm ta không biết!
Ta cảm thay ai viết mấy lời.

Thôi thời:
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui,
Chỉ để khách đa tình đa cảm,
Một mình thay cảm những ai ai!

Bài thơ bắt đầu bằng câu ngũ ngôn, rồi xuống câu tam ngôn, tứ ngôn, rồi tiếp theo là lục bát. Không ai băn khoăn hỏi đây là thể thơ gì ? Bởi nó rất thơ, ngũ ngôn thì ra ngũ ngôn, rồi chuyển đến tam tứ ngôn, đều tự nhiên như thế cả.

Bài Tống Biệt :

Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Ðá mòn rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Ðầu non
Ðường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...

Bài này không thể nói là thể thơ gì nhưng có ai bảo nó không phải là thơ ?

Tôi nhớ đến một bài thơ khác của ông Hà Thượng Nhân trên báo Tựợ Do viết gởi ông Kémoularia đạii diện liên Hiệp Quốc. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1959, Ủy ban Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của ông Kémoularia, đại diện đặc biệt của ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về năm những người tỵ nạn trên thế giới đã nhóm họp tại Sài Gòn.
Bài thơ dưới đây mà ông HTN đã viết để chào mừng vị sứ giả của tình thương ấy. Bài thơ tuy dài nhưng vẫn có tính chất thời sự, vì thế tôi xin chép lại nguyên văn:

Kính chào Kémoularia

Kính chào Kémoularia
Sứ giả tự do
Tiếng nói của con người đau khổ.
Chúng tôi ra đi
Vượt Trường Sơn hiểm trở,
Lấy tay yếu cản đè sóng dữ,
Không cần sống, chỉ cần dân chủ,
Tìm về thế giới tự do
Ở đâu áo ấm cơm no ?
Trăng Thu rung mãi tiếng hò nhặt khoan.
Chúng tôi khinh nguy nan,
Tìm tấm lòng cởi mở.
Lúc gặp nhau vui mừng hớn hở,
Dù mới quen như biết từ lâu.
Mời nhau này một miếng trầu,
Chuyền tay vê điếu thuốc lào cũng vui.
Chúng tôi đổ mồ hôi,
Nâng niu từng tấc đất,
Mỗi tấc đất là tấc lòng tấc ruột,
Là máu xương, là sự nghiệp ông cha.
Mà nay lìa cửa, lìa nhà,
Bởi say ánh sáng, chẳng thà thiêu thân.
Năm châu triệu triệu bước chân,
Của chúng tôi : Những người dân cần cù.
Ơi Tây Ðức mịt mù thăm thẳm,
Ơi Nam Dương ngàn dặm, héo hon !
Bốn phương giang mắc núi non,
Lưới nào bủa được cánh con chim trời ?
Ơi Tây Tạng, những lời nói ngọt,
Tại làm sao chẳng lọt vào tai ?
Ơi Hung Gia Lợi anh tài,
Nắm tay thành bức tường dài : chúng ta,
Kính chào Kémoularia,
Kính chào Liên Hiệp Quốc.
Phẩm giá con người từ lâu nhơ nhuốc,
Chúng tôi đi để chuộc lấy linh hồn.
Rồi những bình minh, rồi những hoàng hôn,
Chợt tỉnh lại ngoảnh về đất Bắc,
Thương cha mẹ đày trong gót giặc,
Nhớ từng lối cỏ bờ tre,
Mùa nào lúa chín đỏ hoe,
Mùa nào gió trở se se, hỡi mình ?
Nếu lấy sống làm vinh,
Chúng tôi không sống nhục.
Chỉ có một cực hình,
Là cúi đầu gục mặt.
Chúng tôi đi, bởi không cam què quặt,
Không học theo lang sói sủa quân thù,
Rạch Cái Sắn thành khoai, thành đỗ,
Rừng cao nguyên thành lúa, thành cơm,
Ðánh tranh gìn giữ cọng rơm,
Ở đây tưởng thấy mùi thơm quê nhà.
Ơi Kémoularia !
Biết lấy chi làm quà,
Trao vào tay sứ giả ?
Xin cho gửi niềm thống khổ,
Mồ hôi nước mắt tin yêu.
Xin cho gửi lời chào,
Những ai cùng cảnh ngộ,
Tiếng nói chúng tôi dù rằng bé nhỏ
Nhưng là tiếng nói can trường.
Nhờ tình yêu dẫn lối đưa đường
Hòa trong tiếng những người “đồng chí”.
Chúng tôi viết giữa không gian hùng vĩ,
Giữa lòng thế kỷ hai mươi :
“Chúng tôi là người,
Chúng tôi muốn làm người.”
Hỡi Kémoularia,
(trích trong tập thơ CHÂN TÂM do Ðỗ Kế Hoàn sưu tập trang 23)

Bài thơ này không viết theo một thể thơ nhất định nào. Nó là phối hợp nhiều thể thơ nhưng là một bài thơ.
Và sau đây là một bài Thất ngôn bát cú :

NGÔNG

Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc
Ném gươm long tuyền về non Tây
Chí thôi đã lỡ, kệ binh lửa,
Danh vốn không màng, mặc cỏ cây.
Gà chó đôi con năm tháng rộng
Ruộng vườn dăm khoảnh gió trăng đầy
Buông câu, xốc áo quay nhìn vợ:
Trời đã chiều chưa? Ta đã say!

HTN

Câu đầu toàn vần trắc đến câu hai toàn vần bằng, bài thơ thật hay phá cách thật tài tình. Ông cũng đáng danh là một “đại gia thơ” trong làng thơ Việt Nam. Như vậy thì thể thơ là một cách nói. Gần đây Bà Vi Khuê có viết một bài thơ. Mới đọc qua tưởng là luật Ðường. Nhưng theo tôi, đó là bài thơ “có vẻ” là luật thế thôi. Bài thơ như sau :

Bà Huyện Thanh Quan

Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm
Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng
Trong cơn gió bụi chìm hương lửa
Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng
Cung báo quốc não nùng điệu quốc
Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên
Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại
Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền

Câu 5 có vẻ không đúng luật, nhưng nhịp của hai câu thơ ấy rõ ràng không còn là nhịp thơ của luật thơ nữa. Cho nên ta vẫn thấy thuận tai. Câu thơ vẫn đứng vững bởi nó đã chuyển qua nhịp thơ Song Thất (nhịp ba).Muốn phá được như thế, trước hết phải nắm vững luật thơ nói chung và dĩ nhiên tài năng phải vào bậc thượng thừa.
Lý Bạch, Thôi Hiệu, Ðỗ Phủ, Nguyễn Du... là những thi sĩ thượng đẳng, những đại gia trong làng thơ. Nhưng bài Anh Vũ Châu của Lý bạch, bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ thất niêm và Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng thất niêm :
Chưa ai làm thơ nhiều bằng Lý bạch, Thơ đối với ông là không khí. Ông xử dụng nó tự nhiên như hít thở khí trời.
Lý Bạch, tổ sư của thơ, người đời thường gọi ông là Trích Tiên, ông cũng có những bài thơ không chú trọng tới niêm luật :

Anh Vũ Châu

Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan điệp hương phong noãn
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh

Dịch Nghĩa:

Chim Anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao !
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai

Dịch Thơ:

Bãi Anh Vũ

Sông Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về đây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ !
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Ðợi ai trăng bãi luống bơ vơ !...

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Hay :

Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

Hay là :

Ðộng Ðình Hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu tương giang bắc tải hồng phi
Túy khách mãn tiền ca Bạch Tử
Bất tri sương lệ nhạn thu y

Và :

Cố nhân tây hồ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam nguyệt há Dương Châu

Những câu trích ra trên đây, thất niêm, thất luật lung tung ! Lý Bạch lại không biết luật ư ? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay !
Những câu thơ hay của Hàn Mặc Tử, của Quang Dũng của Thâm Tâm cũng cần có luật đâu ? Vậy thì niêm luật không cần thiết ư ? ố Không cần thiết thì đặt ra làm gì, nghiên cứu làm gì ?
Xin thưa : niêm luật cần lắm chứ ! Nó giúp người ta rất nhiều để làm những bài thơ “khả thủ”, những tay đại bút thì không cần. Họ chính là luật, họ tạo ra luật. Muốn sáng tạo đương nhiên phải thông thạo nó. Chưa biết mà tấp tểnh phá luật là một điều buồn cười. Người phá luật phải rất thông thạo luật, cũng như người giỏi võ phải thông thạo mọi thế võ, khi đã thạo võ, xuất chiêu là thành võ đâu cần phải câu nệ ? Không một võ sĩ nào khi lên đấu mới nghĩ đến những miếng võ mình cần xử dụng. Lầu thông rồi, nó biến thành những cử chỉ tự nhiên như hơi thở , đi đứng.

Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, là một trong những bài thơ hay trong hàng trăm hàng vạn bài thơ Ðường . Hoàng Hạc lâu, hay đến nỗi nhà thơ như Lý Bạch, bước đến Lầu Hoàng Hạc thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách, liền quăng bút, không dám đề thơ nữa . Giai thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Ðường, là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ (Lý Bạch, đấu tửu thi bách thiên). Theo giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu như sau :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Tản Ðà đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịch hay nhất :

Lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Tản Ðà

Huệ Thu cũng có bài dịch :
(trong tập SCTÐ)

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn
Hạc bay rồi, đã bay luôn
Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu
Hán Dương cây đứng gục đầu
Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương
Sớm chiều nhắc mãi quê hương
Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi !

huệ thu

Và bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ:

Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương tống mạc tương vi

Tản Ðà Dịch :

Sông Khúc

Khỏi bệ vua ra cố áo hoài
Bến sông say khướt, tối lần mai
Nợ tiền mua rượu đâu không thế ?
Sống bảy mươi năm đã mấy người ?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn rỡn nước lửng lơ chơi
Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Bản dịch của Tản Ðà :
Câu thứ bảy thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như vậy. Ông thất niêm cố ý ! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề khác.

Bài Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng vậy :

Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần lân tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?

Bài thơ viết theo luật bằng :

Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư

Ðến câu thứ 7 tự nhiên tác giả chuyển qua luật trắc :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?

Trong làng thơ Quốc Âm, thơ thất niêm còn để lại cũng khá nhiều, thí dụ bài Vịnh Dế Duỗi của Tú Qui:

Kiến chẳng kiến voi chẳng voi
Ðời sanh dế duỗi cũng loi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Có tay vạch đất cũng khoe tài
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi
Quân tử có thương thời chớ phụ
Ðể cho bay nhảy thử mà coi

Bà Hồ Xuân Hương trong bài Ðèo Ba Dội câu đầu Hồ nữ sĩ đã phá luật:

Một đèo, một đèo, lại một đèo !
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Ðầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng cứ trèo

Trong bài Xướng họa với Chiêu Hổ :

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay !

Hay trong bài Khóc Tổng Cóc :

Chàng cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi !

Câu đầu của hai bài thơ Tứ Tuyệt mỗi câu chỉ có 6 chữ, theo luật vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ tuyệt : nhất tứ, nhị tam). Những phá cách của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được, bởi thơ bà chữ nghĩa dùng quá hay và quá tài tình.

Những người còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này :

Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn.

Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước đã.
Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có một nguyên tắc nào là vẹn toàn ! Học như thế mới là học.

Như vậy những bài thơ thất niêm, thất luật còn được truyền tụng phần nhiều là của các bậc danh gia. Vậy thì: “Ðại gia văn chương bất câu niêm luật”ư ?
Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những võ sĩ khi thượng đài không còn phải nhẩm lại các đường quyền phải múa thế nào cho đúng, chân tấn thế nào cho vững! Xuất chiêu dĩ nhiên là có thế võ rồi.
Thiết tưởng sự thất niêm thất luật kia là cố tình chứ không phải sơ ý .

Rất nhiều bài thơ nổi tiếng ở nước ta của Hàn mặc Tử, của Quang Dũng ... vừa thất niêm lại thất luật !( xin đọc phần phụ). Cho nên rõ ràng niêm luật chưa phải là thơ. Cứ câu nệ ở niêm luật chưa chừng thơ không còn là thơ nữa !

* Phần phụ Thêm :

Tôi nhớ trước đây tôi có trả lời chị NTND về một câu thơ của tôi chị cho là sai luật, trong bài :

Nhớ Quê Hương

Quê Hương. Trời ! Thao thức không tên
Một tiếng rao quà mới cất lên
Ðà Lạt mây xưa mờ trước cửa
Trại Hầm mận ngọt lịm nhà bên
Chép thơ trong lớp lòng ngơ ngẩn
Cởi áo qua cầu nổi nhớ quên !
Một chút nắng vàng trên lộ vắng
Rưng rưng ngày ấy thác Prenn .

Câu đầu chị NTND muốn tôi sửa lại vì bị “trật niêm luật” - Nhưng tôi trả lời câu thơ đó tôi viết như thế vì muốn chuyển nhịp...

- Nếu hiểu theo cách học của nhà trường lúc mới vỡ lòng về thơ thì câu ấy sai luật chứ không sai niêm. Muốn sai niêm phải sánh với câu dưới. Còn nếu muốn nói đã sai luật là kéo thêm niêm thì cũng không sao.
Tôi xin kể ra đây một số thơ của những thi sĩ lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa (Nói đúng hơn là phá niêm luật).

Như trên, trong bài Khúc Giang , Ðỗ Phủ viết :

Truyền ngữ xuân quang cộng lưu chuyển
Trong câu này chữ lưu phải là thanh trắc

Trong bài Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu viết :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Chữ thừa thất luật .

Thơ Việt Nam thì Hàn Mặc Tử viết :
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Chữ về thất luật.

Quang Dũng thì viết :
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chữ luông thất luật.

Trong bài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm viết:
Ðưa người ta không đưa qua sông

Cả một câu bảy chữ đều là thanh bằng.

Trong bài Ðộc Tiểu Thanh Ký, Nguyễn Du viết :

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

rồi hạ xuống hai câu kết:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

như thế là thất niêm.
Thật ra, người ta làm thơ trước khi biết luật; Nói được Việt ngữ chẳng hạn trước khi học ngữ phạm Việt Nam. Luật không phải do người sáng chế ra mà chỉ do người khám phá ra luật . Vậy thì luật do đâu mà có ? Luật là quy tắc chung của muôn loài muôn vật : như nước chảy xuống chỗ trũng ... Con người quan sát thiên nhiên, khám phá những quy luật của thiên nhiên, rồi quy củ hóa nó, điển chế nó để áp dụng vào thi ca, âm nhạc v... v...
Cái luật cốt tử của nó là luật điều hòa âm dương. Trong thơ, tiếng bằng là âm, tiếng trắc là dương. Mỗi câu thơ dù dài, dù ngắn, phải chia ra thành từng nhịp.
Người hơi có ý thức về thơ, đọc một câu thơ tất phải ngắt nhịp. Thường mỗi câu thơ chia ra làm ba nhịp.

Bây giờ hãy xin nói đến luật thơ Ðường Thi bát cú :

Mỗi bài có tám (8) câu, năm (5) vần, hoặc bốn (4) vần. Có hai thể : thể bằng và thể trắc.
Xin đơn cử một bài theo thể bằng :

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
v... v...

Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh.
Vậy thì chỉ có những chữ thứ 2, 4 , 6 phải theo luật bằng trắc như đã ấn định.
Luật ấy nếu viết tắt ra thì như thế này:

Thể bằng:
Chữ thứ Chữ thứ Chữ thứ
2 4 6 :

B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B


Thể Trắc :

Chữ thứ 2 Chữ thứ 4 Chữ thứ 6 :

T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T

Nhìn vào đó ta thấy, đếm theo hàng dọc :      
                 
B + TT + BB + TT + B

Vì bài thơ là thể bằng nên chữ thứ 2 của câu đầu là thanh bằng.
Nếu đếm theo hàng ngang thì :

B + T + B

Hễ giữa mà trắc, hai bên bằng là đúng luật. Còn đếm theo hàng dọc chữ thứ 2 của câu 1 + 8 giống nhau, chữ 2 của câu 2 + 3 giống nhau, chữ 2 của câu 4 + 5 giống nhau, chữ 2 của câu 6 + 7 giống nhau là đúng niêm.
Niêm luật ấy là chỉ dùng cho việc thi cử (để dễ có tiêu chuẩn mà chấm bài). Những bài thơ đúng luật nhất là những bài thơ của các vị đại khoa (các cụ Trạng, cụ Bảng, cụ Thám, cụ Nghè) khi làm để lưu niệm lúc ngồi ăn với vua. Những bài thơ ấy ngày nay có còn ai nhớ nữa đâu ! Nó chỉ đúng luật chứ chưa phải là thơ.
Những bài thơ mà tôi vừa nêu trên (như bài của Ðỗ Phủ là một bài luật thi hẳn hoi) mà vẫn thất niêm, thất luật. đâu có phải vì những người ấy không hiểu niêm luật.
Nếu chúng ta để ý nhận xét thì thấy thế này; từ tứ tuyệt đến song thất, đến luật thi, đến ca trù, đến thơ mới 8, 9 chữ.., tất cả chỉ có một luật, tất cả các luật đều giống nhau. Sở dĩ trong các sách giáo khoa người ta dạy thơ lục bát khác luật song thất v... v... để cho học trò dễ nhớ. Các thể thơ mà khác nhau là do nhịp thơ. Chính nhịp thơ (chữ cuối mỗi nhịp thơ là luật thơ, bắt buộc (nói bắt buộc là nói tương đối thôi) phải theo đúng bằng trắc còn tất cả tùy tiện muốn viết là bằng hay trắc cũng được. Ðây là tôi chỉ nói một cách sơ lược.

Vì thế trong câu thơ mà chị bảo là sai luật là tôi muốn chuyển nhịp câu thơ đang 2 + 2 + 3 thành 3 + 2 + 2 . Không phải là tôi bảo rằng có thể dùng thể thơ trộn lẫn song thất vào thể thơ thất ngôn. Ấy là tôi nhìn vào cái lý cuối cùng của luật : tạo ra quân bình thoải mái cho câu thơ. Mong sẽ còn lãnh thêm ý kiến của chị và các bạn thơ .

Ở trên tôi đã viết tất cả các thể thơ đều chung một luật : ấy là luật quân bình âm dương. Luật ấy là căn cứ ở những chữ cuối nhịp cửa mỗi câu thơ mà định. Chỉ có 3 chữ ở cuối các nhịp là chữ Luật nghĩa là phải viết đúng theo công thức T (nhịp 1) bằng (nhịp 2) T (nhịp 3) hoặc ngược lại: B (nhịp 1) Trắc (nhịp 2) B (nhịp 3) nghĩa là hễ chữ cuối ở nhịp thứ 2 là trắc thì chữ cuối của nhịp 1 và 3 phải bằng.

Tôi xin chứng minh :
Thể Lục Bát

Trăm năm (B) trong cõi (T) người ta (B)
Chữ tài (B) chữ mệnh (T) khéo là (B) ghét nhau (B)

Bởi câu 8 có 4 nhịp, 2 nhịp 3 và 4 cùng là bằng nên 2 chữ bằng 1 phải có dấu huyền (là) và một chữ không có dấu. Nhịp thơ của thơ lục bát là nhịp 2 - Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có luật lệ như câu :

Mai cốt cách (T) / tuyết tinh thần (B)
Câu thơ này nhịp 3 . Ðã vậy thì cuối nhịp 1 phải là trắc. Thơ lục bát có những biến thể :

Biến thể 1 :
ví dụ ta viết (đây chỉ là ví dụ):

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ mệnh khéo là ghét bỏ chữ duyên

Vần đáng lẽ ở chữ thứ 6 ở câu 2 thì ở đây lại gieo vào chữ thứ 4 . Khi ấy chữ cuối của các nhịp thơ sẽ đổi là nhịp 1 (chữ thứ 2) T, chữ thứ 4 (B), chữ thứ 6 (T) và chữ thứ cùng là bằng thì chữ vần phải có dấu huyền và chữ thứ 8 thì không .

Biến thể 2:
ví dụ :

Nước trong xanh lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô, bây giờ mà cành bích con chim phụng hoàng nó đậu cành trên .

Dù số chữ trong câu có dài hơn nhưng đọc lên câu trên vẫn có 3 nhịp và câu dưới có 4 nhịp . Ðó là 1 kiểu thơ của dân gian cho nên số chữ có thể linh động thêm bớt. Tuy nhịp thơ thì vẫn y nguyên . Nhịp thơ căn cứ vào đâu mà biết ? Thưa: - do linh tính. Ðọc lên là biết liền. Nếu đọc không đúng nhịp thì sẽ thấy trúc trắc .

Luật thơ song thất lục bát :
ví dụ :

Trải vách quế (T)gió vàng (B) hiu hắt (T)
Mảnh vũ y (B) lạnh ngắt (T) như đồng (B)
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má hồng

Luật thơ là : T (quế) B (vàng) T (hắt)
B (y) T (ngắt) B (đồng)
Chữ bằng ở cuối nhịp 1 không có dấu huyền thì chữ thứ 7 bắt buộc phải có. Ta nhìn rõ thì câu thơ theo đúng luật âm dương: giữa bằng thì hai bên trắc và ngược lại.

Thơ mới:
ví dụ :

Ðây là quán / tha hồ / muôn khách đến /
Ðây là bình / thu hợp / trí muôn hương /
Ðây là vườn / chim nhả hạt / mười phương
Hoa mật ngọt / chen giao / cùng trái độc /
Ðôi giếng mắt / đã chứa trời / vạn hộc /
(Xuân Diệu)

Nhịp của các câu thơ 8 chữ có thể là (theo các câu trên)
3 + 2 + 3
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
(nghĩa là có thể linh động)

Luật thơ : căn cứ vào các chữ cuối nhịp, ta có :

Câu 1 Quán (T) hồ (B) đến (T)
Câu 2 hình (B) hợp (T) hương (B)
Câu 3 vườn (B) hạt (T) phương (B)
Câu 4 ngọt (T) giao (B) độc (T)
câu 5 mắt (T) trời (B) hộc (T)

Nó đã đi vào luật ban đầu :
Giữa Bằng 2 bên trắc
Giữa Trắc 2 bên bằng

Hát nói:
Ví dụ :
Mới ngày nào / đã biết / cái chi chi
Mười lăm năm / thấm thoát / có ra gì /
Ngoảnh mặt lại / đã tới kỳ / tơ liễu .

Căn cứ vào những chữ cuối nhịp ta có :

nào (B) biết (T) chi (B)
năm ( B) thoát (T) gì (B)
lại (T) kỳ (B) liễu (T)

Cũng vẫn luật : giữa Trắc 2 bên Bằng và ngược lại câu 2, chữ cuối nhịp 3 cũng bằng nhưng không dấu .

Ðây là những hiểu biết thô thiển của tôi về phá cách trong luật thi , xin các quý vị cao minh cho thêm ý kiến để học hỏi thêm.

Huệ Thu
Ngày 10 tháng 3 năm 2008








Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

Những vần thơ xuân

Văn thơ Lạc Việt mà thiếu đi tiếng thơ thì cũng hơi buồn, cũng như niên trưởng Ngô Đình Chương đã góp vui những bài thơ hay.
Lê Tuấn xin góp vui thêm vài bài thơ viết cho mùa xuân, mời quý vị văn Thi hữu đọc cho vui. (Những vần thơ lục bát của tôi)
Mến chúc quý vị một mùa xuân đầy hoa thơm cỏ lạ và thật bình an.
Lê Tuấn






Đong đầy tình xuân

Trời xuân én lượn chân mây
Bướm ong rót mật, đất say nhớ người
Ý xuân ngôn ngữ không lời
Đường hoa vui bước, rượu mời tình thân.

Đôi tay dang rộng bao lần
Ôm trời đất lạ, thương gần nhớ xa
Âm vang tiếng hát dân ca
Điệu vui phiên khúc mặm mà tình quê.



Mùa xuân em bước chân về

Rừng hoa dại tím, tóc thề nhẹ bay
Môi thơm chín đỏ mê say
Hương xuân cỏ lạ, chứa đầy tình riêng.

Em về hoa lá ngả nghiêng
Thầm ghen hương sắc nỗi niềm xôn xao
Hồn ta đã có em vào
Cho nhau một thoáng, khát khao xuân thì.

Lê Tuấn




Mùa xuân
thơm ngát đường quê

Mùa xuân nắng trải trên đồi
Thảm xanh cỏ biếc em ngồi hóa thân
Mùa xuân ta bóng phù vân
Vui ngày chưa tắt, cho ngần ngại qua.

Mùa xuân em dáng mượt mà
Bước đi trong nắng, rộng tà áo bay
Tuổi xuân em giữ trong tay
Nắng hồng trên má, mê say người về.

Mùa xuân thơm ngát đường quê
Ngàn hoa chớm nở hương mê lạ thường
Mùa xuân đứng giữa con đường
Chia đôi dấu cỏ, lòng vương vấn hoài.

 
Lê Tuấn






Như hạt mưa sa.
"trích đoạn trong bài thơ "như hạt mưa sa" bao gồm 100 câu thơ lục bát
bài thơ này tôi đã viết từ lâu, lê tuấn"

Vòng ôm khép lại còn dư
Dáng em nhân ái hiền từ dễ thương
Mùa xuân đứng giữa dặm trường
Hoa thơm cỏ lạ trời sương khói mờ.

Ta vừa lạc bước trong mơ
Gặp hồn (Từ Thức) bên bờ thiên thai
Gặp em phong tỏa dấu hài
Cho ta quên hết ngày mai đường về.

Dặm trường mờ bóng sơn khê
Phiêu bồng trong cõi hư mê nghìn trùng
Hồ thu soi bóng hình chung
Thấy trong bóng nước chân dung đời mình.

Đất trời im tiếng lặng thinh
Nghe thiên thu rụng quanh mình bơ vơ
Cho vần lục bát dệt thơ
Âm vang vô lượng vỗ bớ đá non.


Lê Tuấn, trong vần thơ lục bát.

Thứ Tư, 10 tháng 1, 2018

Những vần thơ mùa Xuân

Mùa Xuân lại sắp trở về trên vùng trời (Thung lũng hoa vàng). Nói một cách nôm na là "Năm hết Tết đến"  những tâm hồn thi nhân rộn ràng, và thêm một chút lãng mạn cho tâm hồn tươi vui hơn. Với ý tưởng này tôi xin chia sẻ với quý vị "văn thi hữu" những bài thơ mà tôi đã viết về mùa xuân. 
Mến chúc quý vị một mùa xuân trở về tràn đầy niềm vui
Lê Tuấn

Inline image 1

Tháng giêng và em

Tháng giêng em dáng như thơ
Ngực khơi kẽ áo, đôi bờ non cao
Hàng khuy quên bấm gió vào
Làn da trắng mịn, ngọt ngào hương mê.

Mùa xuân em bước chân về
Rừng mai chào đón, tình quê dịu dàng
Xuân vui hòa nhịp cung đàn
Hoa xuân như mới, dâng tràn nhụy non.

Miếng môi in đỏ dấu son
Tóc vương sợi rối, lưng thon chân dài.
Tháng giêng ta bỗng thở dài
Em từ đâu đến, mang hoài vọng xưa.


Lê Tuấn

Inline image 2


Rối bời ý xuân

Mùa xuân vui bước chân đi
Dáng em vừa độ xuân thì ngây thơ
Bỗng dưng ta chợt ngẩn ngơ
Đường xuân mấy lối, cõi bờ nào riêng.

Cỏ non xanh biếc tháng giêng
Bướm đùa hoa lạ, ngả nghiêng đất trời
Âm vang giọng nói tiếng cười
Em làm ta đã, Rối bời ý xuân.

Lê Tuấn

Inline image 3
Bức ảnh này tôi chụp khi tham dự (Tour lá mùa thu tại Yosemite 2013)

Rừng khóc giữa mùa xuân.
(Viết tặng nhà văn Phạm tín Anh Ninh,
Qua tập truyện Rừng khóc giữa mùa xuân)

Rừng đã khóc giữa mùa xuân năm đó
Cánh mai vàng nằm khuất giữa hoang sơ.
Đỉnh núi Phổ Đà, mờ xa xương khói
Bóng người xưa thoáng hiện một giấc mơ.

Ta trở về khi rừng chiều khuất bóng

Tâm vô thường, lững thững bóng ai đi
Chinh chiến xưa hằn sâu bao dấu tích
Lệ đã khô, dòng cạn ráo trên mi.

Rừng đã khóc với mây ngàn gió núi

Cho đất trời dựng đứng vách ưu tư.
Ta về đây giữa hoang tàn phế tích
Cõi vô thường mờ dấu vết chân xưa.

AET. Lê Tuấn

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Lục Vân Tiên - Mạn Đàm - Phần 2

Văn Thơ Lạc Việt
Trân trọng giới thiệu đến quý vị Video clip "Lục Vân Tiên - Mạn đàm phần 2"
Xin mời quý vị xem và tiếp tay phổ biến rộng rãi để bảo tồn Văn Học và Tiếng Nói của Người Việt Tự Do.

Ban Truyền Thông VTLV
Trân trọng. Kính mời.


Inline image 2
Lục Vân Tiên - Mạn đàm phần 2 - VTLV

Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

Lục vân Tiên phần 1


Mở đầu cho những hoạt động văn học trong năm 2018. Trân trọng giới thiệu đến quý vị Video clip "Mạn đàm về Lục Vân Tiên" của đại thi hào Nguyễn Đình Chiểu.
Văn Thơ Lạc Việt. Để mở đầu cho những sinh hoạt trong năm…
YOUTUBE.COM

Dòng sông tuổi thơ

Tôi ngẫu hứng viết một bài thơ (5 chữ) với tựa đề "Dòng sông tuổi thơ", vì sáng hôm nay trời đất thật âm u, mưa rơi thật nhẹ nhưng đủ làm ướt cỏ cây và những con đường, tôi ngồi trước cái laptop và trên Youtube âm vang của bài hát (Mẹ Tôi) lời bài hát thật xúc động thẩm thấu qua tâm hồn và tôi đã viết bài thơ 5 chữ, viết về nỗi nhớ Mẹ tôi, mặc dù bà đã trở về cõi vĩnh hằng từ lâu lắm rồi, còn tôi thì cũng đã già. Xin chia sẻ bài thơ ngẫu hứng viết về Mẹ, xin gửi đến quý vị Văn Thi Hữu đọc cho vui. Dòng sông tuổi thơ là tâm trạng biến chuyển theo 4 mùa của Trời Đất, và cũng là sự biển chuyển của một vòng tròn trong một năm.
Trân trọng
Lê Tuấn
Dòng sông tuổi thơ
Mẹ ơi! Con đã già
Ngồi nhớ ngày đã qua
Thời gian còn bên mẹ
Trong vòng tay ngọc ngà.
Mẹ ơi! Xuân lại về
Nhớ một thời, làng quê
Mẹ cho con áo mới
Tuổi thơ đẹp say mê.
Mùa hạ, sáng tinh khôi
Bên hiên mẹ đang ngồi
Nhìn xa xăm nỗi nhớ
Lòng con bỗng bồi hồi.
Lá mùa thu nhẹ rơi
Vàng úa cả khung trời
Mẹ tôi già hơn trước
Tóc mẹ trắng như vôi.
Mùa đông hoa tuyết bay
Nỗi nhớ chợt đong đầy
Mẹ choàng khăn len ấm
Ôm con trong vòng tay.
Mẹ ơi! Tháng năm qua
Con bây giờ đã già
Trên bàn thờ ảnh Mẹ
Tình yêu thương chan hòa.
Lê Tuấn

Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục

Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa..
khoc-content
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
 
Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
 
Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
 
Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
 
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
 
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
 
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
 
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan
mevn-large-content
Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
 
Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
 
Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
 
Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
 
Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
 
Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối,
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
 
Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
 
Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.
 
Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.
Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ !

 
Trần Văn Lương


 
Nhiếnh Gia
Vũ Công Hin

Vũ Công Hiển

Sunset On The Mekong Delta
On The Long Way Home
  
Pfeiffer Beach At Sunset
   
 Sand Playing In The Early Morning
  
 Street Art
     
 Straw Hat Vendor
  image016.jpg.jpeg
 Handcrafter At Sapa Night Market
    
 Heading For The High Sea
    
 Lantern Shop
   
 Cow Race
  
 A Real Fight
   
Feeding
    
 Hunting Cheetah
    
 Helping Grandma To Cook
  
Fish Cooking For Tet Sale
 
 A Little H’Mong Girl
 
 At Ngoc Son Temple
 
 Early Morning On The Beach
   Boatgirl In The Jungle
  I Really Need A Break

  
 Working On The Sea Salt Field
   
Long Time Friends
  
 Saigon By Night
 Sunset Bath

 Sunset At Newport Beach