TẾ LUÂN
(LÊ TUẤN - LOUIS TUAN LE)
Người Nghệ Sĩ Không Bao Giờ
Tắt Ngọn Lửa Sáng Tạo
Tế Luân là bút hiệu của Lê Tuấn, sinh năm 1948 tại Hà Nội. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ và nhập quốc tịch, ông lấy tên là Louis Tuan Le. Tế Luân là một trong những tiếng nói tiêu biểu của thế hệ nhà văn, nhà thơ hải ngoại hậu chiến, ông mang trong mình không chỉ ký ức chiến tranh, nỗi đau tù đày, mà còn một tình yêu sâu sắc với nghệ thuật và quê hương.
Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào miền Nam, lớn lên và trưởng thành tại Sài Gòn. Đến năm 1961, ông gia nhập Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, tốt nghiệp năm 1967 và chính thức bước vào cuộc đời binh nghiệp. Trong suốt những năm phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông trực tiếp tham gia nhiều chiến trường khốc liệt, với chức vụ cuối cùng là Đại đội trưởng Địa Phương Quân, Tiểu khu Hậu Nghĩa.
Tế Luân từng ba lần bị thương nơi chiến tuyến, trong đó có một lần suýt mất mạng trong “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972 khi bị trúng B40, thân thể văng khỏi căn nhà lá, để lại một mảnh bom trong cánh tay đến tận bây giờ. Nhưng ông vẫn vượt qua cả về thể chất lẫn tinh thần.
Sau biến cố tháng Tư năm 1975, ông bị bắt và giam giữ suốt 8 năm tại các trại cải tạo từ Nam ra Bắc: Katum (Tây Ninh), An Dưỡng (Biên Hòa), Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Trại 6 Thanh Chương và Trại 3 Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh). Những tháng ngày tù đày khắc nghiệt ấy đã để lại dấu ấn không thể xóa mờ trong tâm hồn. Và cũng chính từ đó, chất liệu của văn chương và âm nhạc trong ông được kết tinh mạnh mẽ.
Ông từng đối diện với "hội chứng chiến tranh" (shellshock), một dạng sang chấn tâm lý do chịu đựng quá nhiều tiếng bom đạn, cùng với những tổn thương tinh thần trong thời gian bị giam giữ như một tù binh chiến tranh. Nhưng điều đáng quý nơi ông, là tâm hồn nghệ sĩ không ngã quỵ. Trái lại, ông đã hóa nỗi đau thành lời thơ, thành nhạc, thành những tác phẩm thấm đẫm chiều sâu lịch sử, nhân sinh và lòng yêu nước.
Năm 1993, ông cùng gia đình định cư tại San Jose, Bắc California theo diện HO 20. Từ đây, hành trình sáng tạo văn học, nghệ thuật của ông tiếp tục “tỏa sáng” và được ghi nhận trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.
Là một người đa tài, Tế Luân không chỉ là thi sĩ, nhà văn, họa sĩ, mà còn là một nhạc sĩ nghiệp dư và video editor.. Ông không ngừng sáng tạo, tự "học hỏi" và "làm mới" mình qua nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau. Đặc biệt, ông đã thực hiện hàng loạt talk show và video mạn đàm về các tác phẩm văn học kinh điển Việt Nam như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên, Tỳ Bà Hành… Những chương trình này được phát sóng trên các đài truyền hình như VNA-TV, Dân Sinh, Viet Today, cũng như phổ biến rộng rãi trên YouTube và Facebook.
Bên cạnh đó, ông còn thực hiện nhiều video phóng sự, du lịch Âu, Đông Âu, audiobook văn học, và những ca khúc sáng tác trong tù cải tạo như: Vết Loang Đọa Đầy (1978), Như Cơn Gió Lốc (1979), Xuân Vẫn Mang U Hoài (1979)...
Các nhạc phẩm này cùng hơn 14 ca khúc phổ thơ của ông đã được trình bày thành album “Những Ca Khúc Phổ Thơ Tế Luân. Chiều Sông Hương”. Đặc biệt, những bản tình ca sâu lắng như Trên Đỉnh Mưa Bay, Tạ Ơn Em, Mùa Thu Vẫn Hát Cho Người… đã thu hút hàng ngàn lượt xem trên YouTube.
Tế Luân là một thành viên tích cực của Văn Thơ Lạc Việt Bắc California và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Bên cạnh vai trò sáng tác, ông còn từng đảm nhiệm vị trí phụ trách Ban Truyền Thông, với những đóng góp không ngừng nghỉ trong việc quảng bá văn hóa và văn học Việt Nam tại cộng đồng người Việt hải ngoại.
Từ năm 2019 đến nay, Tế Luân đã cho ra mắt nhiều tác phẩm văn học phong phú, trải dài từ thơ, tùy bút, truyện ngắn đến triết luận. Tình Yêu Của Tôi (2019 – Thơ), Sen Già Nở Muộn (2020 – Tùy bút & Thơ), Đội Đập Đá (2020 – Hồi ký tù cải tạo), Lang Thang Cõi Người (2021 – Thơ), Triết Học & Thiền Bên Dòng Văn Thơ (2021), Lặng Im Tiếng Đời (2022 – Thơ), Lời Của Dòng Sông (2023 – Thơ), Bóng Đổ Tình Yêu & Chiến Tranh (2024 – Tuyển tập truyện ngắn), Sương Khói Nhẹ Bay (2026 – Thơ).
Ðiều thú vị là tất cả tác phẩm đều được chính tay ông trình bày, dàn trang và thiết kế bìa, thể hiện sự tận tâm và đam mê nghệ thuật trong từng chi tiết.
Tế Luân không chỉ là một nhà thơ, mà là một người kể chuyện của thế hệ bị lãng quên,người sống sót từ bom đạn, từ những trại tù cộng sản, để ghi lại những mảnh đời tan nát, bằng thơ, bằng nhạc, bằng hồi ký.
Bài thơ Điểm Trên Da Thịt Vô Thường Tàn Phai của nhà thơ Tế Luân là một một ví dụ:
Đường đời vạn nẻo nhấp nhô
Dặm trường gió bụi biển xô sóng gào
Thôi thì cũng mặc ra sao
Trôi theo thân phận, vận vào nghiệp mang.
Bàn cờ chưa đánh đã tan
Đời trai chinh chiến dọc ngang đất trời
Đạn bom khói lửa tơi bời
Cuồng điên nấc nghẹn, đất trời tang thương
Đạn thù hằn dấu vết thương
Điểm trên da thịt vô thường tàn phai
Còn nghe như tiếng thở dài
Cơn đau thân phận, hình hài hư hao.
Trôi theo vận nước lao đao
Mai kia dẫu có ra sao kiếp người
Vẫn còn ngạo nghễ tiếng cười
Ưỡn cao bờ ngực nhìn đời hiên ngang.
Bài thơ là một bản trường ca nhỏ về số phận con người trong bể khổ cuộc đời. Những hình ảnh như “đường đời vạn nẻo nhấp nhô,” “dặm trường gió bụi biển xô sóng gào” không chỉ gợi lên sự gian truân, bấp bênh mà còn là lời nhắn nhủ về những thử thách không thể tránh khỏi trong hành trình sống.
Những câu thơ thể hiện sâu sắc nỗi đau và mất mát của một đời trai trận, với “đạn bom khói lửa tơi bời,” “cuồng điên nấc nghẹn,” như một minh chứng cho những vết thương thể xác lẫn tinh thần không dễ lành lại. “Điểm trên da thịt vô thường tàn phai” vừa là vết sẹo chiến tranh vừa là biểu tượng cho sự phai mờ của thời gian và kiếp người.
Dù cuộc đời có đầy rẫy đau thương, bài thơ vẫn toát lên một tinh thần kiên cường, “vẫn còn ngạo nghễ tiếng cười,” “ưỡn cao bờ ngực nhìn đời hiên ngang.” Đây là một khúc ca của ý chí, một lời khẳng định mãnh liệt về sự bất khuất và lòng tự hào của con người trước số phận nghiệt ngã.
Bài thơ “Em Cúi Xuống” là tiếng khóc cho những người lính nằm xuống, đã thể hiện rõ nhất linh hồn của thi sĩ Tế Luân:
Em cúi xuống để rơi ngàn giọt lệ
Khóc cho đất, cho mộ đá không tên
Cho đêm về lung linh ngọn nến trắng
Tấm thẻ bài chợt lóe sáng trong đêm.
Em cúi xuống thắp nén nhang tình nghĩa
Ngọn gió chiều làn khói tỏa bay cao
Đời chiến sĩ, linh thiêng còn vọng lại
Giữ Quê hương. Hồn bất khuất tự hào.
Em cúi xuống chắp tay quỳ bái lậy
Lệ tuôn trào vị mặn thấm trên môi
Thời chinh chiến viết đầy trang Quân Sử.
Sao còn nghe lòng trĩu nặng khôn nguôi.
Em cúi xuống lệ tuôn trào thương xót
Khóc cho người vì Tổ Quốc Vong Thân
Việt Nam ơi! Lắng nghe hồn sông núi.
Ngọn lửa thiêng, thắp sáng bóng chinh nhân.
Bài thơ này là một khúc ca đầy xúc động, chứa đựng nỗi đau thương sâu sắc và lòng thành kính đối với những người đã hy sinh cho đất nước. Hình ảnh “em cúi xuống để rơi ngàn giọt lệ” mở đầu như một cảnh tượng bi thương, như lời nhắn nhủ về sự tiếc thương vô hạn dành cho những mộ đá vô danh, những người lính không tên nhưng mãi sống trong ký ức quê hương.
Những câu thơ tiếp theo như “thắp nén nhang tình nghĩa,” “linh thiêng còn vọng lại” toát lên tính tâm linh và sự tri ân chân thành, thể hiện niềm tin rằng linh hồn các chiến sĩ vẫn luôn canh giữ, bảo vệ quê hương một cách bất khuất và đầy tự hào. Hình ảnh “ngọn gió chiều,” “làn khói tỏa bay cao” trở thành biểu tượng thiêng liêng, không bao giờ tắt của lòng biết ơn và ký ức.
Theo thi sĩ Tế Luân cho biết, bài thơ đã được hai nhạc sĩ phổ nhạc và trở nên phổ biến trên YouTube. Trong đó, có một ca khúc dựa trên bài thơ này mà tôi đã đổi tên thành “Giọt Nước Mắt Khóc Cho Quên Hương.”
Thơ Tế Luân là những khúc ca đượm nỗi nhớ, nỗi đau và cả sự trân trọng cuộc đời dù đầy bất trắc, mất mát. Qua từng câu chữ, người đọc cảm nhận được hình ảnh người lính, người chiến sĩ với trái tim nhạy cảm, luôn hướng về quê hương, về những ký ức chiến tranh mà vẫn giữ trọn niềm tự hào và niềm tin vào cuộc sống. Những bài thơ như “Bóng Người Xưa” hay “Mùa Xuân Trong Tù” không chỉ là hồi ức mà còn là sự khắc khoải, lời tri ân sâu sắc dành cho những người đã ngã xuống và những năm tháng tù đày đầy gian khó.
“Chiều giới tuyến, sau bao năm cách biệt
Ta về thăm, bia mộ đá hoang sơ
Đất im lặng, cỏ buồn phơi sắc úa
Bóng người xưa, hồn đá vẫn tôn thờ.”
(Bóng Người Xưa)
Đoạn thơ vừa nhẹ nhàng vừa sâu lắng, hiện lên hình ảnh đầy xúc động của người trở về sau chiến tranh, trước những bia mộ hoang phế nhưng vẫn đầy linh thiêng, thấm đẫm tâm huyết và lòng thành kính.
“Xuân chợt đến, quặn đau nỗi nhớ
Kiếp thân tù, tàn giấc thiên thu.
Tết đến còn mang nặng kiếp tù
Ngắm hoa buồn tựa lá mùa thu.”
(Mùa Xuân Trong Tù)
Câu thơ lay động lòng người, khiến ta thấu hiểu cái khắc khoải, cô đơn và nỗi đau đớn của người tù xa nhà trong những ngày Tết, mùa xuân đầy hy vọng mà lại trở nên ảm đạm.
Không chỉ viết về chiến tranh, tù đày, Tế Luân còn thể hiện chiều sâu thiền đạo, sự chiêm nghiệm về kiếp người, sự bình thản và tĩnh lặng trong tâm hồn. Thơ ông như một hành trình tìm về nội tâm, nơi cái “tôi” được thả trôi giữa dòng đời phù du, để rồi nhận ra sự vô thường của cuộc sống và sự bất diệt của tâm linh.
“Ngồi trong tư thế kiết già
Tĩnh tâm nhập định, mở ra cõi lòng
Để hồn vào chốn hư không
Tâm không giao động, hoài mong lòng trần.”
(Lục Bát Và Thiền Đạo)
Phần này thể hiện sự giao hòa giữa thi ca và thiền đạo trong tâm hồn nhà thơ, một chiều sâu tĩnh lặng, một sự buông bỏ những phiền muộn để tìm về sự bình yên trong tâm.
“Tôi thấy vết nhăn hằn trên gương mặt
Từ vết nứt mọc ra một câu thơ
Ý thơ sâu thẳm từ trong ký ức
Hiện hóa thân tôi như một giấc mơ.”
(Gương Mặt Thi Nhân)
Đoạn thơ tự sự, thể hiện sự hòa quyện giữa cuộc đời với thi ca, những dấu vết thời gian không chỉ là vết tích của tuổi tác mà còn là nguồn cảm hứng bất tận để sáng tạo.
Thơ Tế Luân đặc biệt khắc họa sự hòa quyện tinh tế giữa thiên nhiên và cảm xúc. Từ vầng trăng, lá thu, sương khói đến cánh đồng xanh, mùa xuân… mỗi hình ảnh thiên nhiên đều trở thành biểu tượng cho những cảm xúc đa dạng: hoài niệm, yêu thương, hy vọng và cả sự sám hối.
Tình yêu trong thơ Tế Luân không chỉ là những phút giây ngọt ngào mà còn mang đầy trăn trở, chia ly và cả sự chờ đợi âm thầm nhưng đầy hy vọng. Đó là tình yêu không ồn ào mà sâu sắc, lặng thầm mà bền bỉ. Ký ức và nỗi nhớ trong thơ ông trở thành một dòng chảy miên man vừa nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa mộc mạc nhưng giàu cảm xúc. Mỗi hình ảnh, mỗi vần thơ như một mảnh ghép gợi lại một thời đã xa, đầy hoài niệm.
“Tôi chia nửa vầng trăng
Một bên là chốn cũ
Bên kia vào giấc ngủ
Tìm lại chốn xa xưa.”
(Vầng Trăng Thu Chia Nửa)
Đây là đoạn thơ mang đậm tính biểu tượng. Vầng trăng, biểu tượng của sự tròn đầy, của đoàn viên, lại bị chia đôi, như chính tâm hồn người thi sĩ đang bị xé thành hai nửa: một nửa ở lại với “chốn cũ,” nửa kia phiêu du trong giấc ngủ, tìm về miền ký ức xưa cũ? Giấc mơ và hiện thực, quá khứ và hiện tại đan xen tạo thành không gian mơ hồ, mênh mang và thiền vị. Vầng trăng trong thơ Tế Luân không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên, mà còn là tâm trạng, là linh hồn đang đi tìm lại chính mình trong quá khứ đã nhạt nhòa.
“Sáng nay lá thu bay
Gió lùa vào chân mây
Hạt sương thu lạnh lẽo
Đọng trên ngọn tình đầy.”
(Buổi Sáng Sương Thu)
Ở đây, thiên nhiên hiện lên như một chiếc gương phản chiếu cảm xúc. Lá thu rơi, biểu tượng của thời gian và sự tàn phai, cuốn theo gió, mang theo những vỡ vụn của ký ức. Đặc biệt, “hạt sương thu lạnh lẽo” đọng trên “ngọn tình đầy” là một hình ảnh đầy chất thơ và tính biểu cảm. Đó không chỉ là hạt sương của tự nhiên, mà còn là giọt nước mắt không thành tiếng trong một tình yêu lặng thầm, cô đơn. Sự tương phản giữa cái “đầy” và cái “lạnh lẽo” càng làm bật lên tính chất mong manh và dễ vỡ của cảm xúc.
“Mênh mông sương khói nhẹ bay
Em xòe tay bắt chùm mây sương mù
Tưởng rằng nắm cả thiên thu
Nào ngờ một nhúm phù du hão huyền.”
(Mênh Mông Sương Khói)
Đoạn thơ mang đậm màu sắc triết lý, thể hiện nhận thức sâu sắc của nhà thơ về sự phù du, mờ ảo của kiếp người. Hành động “xòe tay bắt chùm mây” tượng trưng cho khát khao nắm giữ cái đẹp, cái lý tưởng, nhưng cuối cùng, tất cả chỉ là “một nhúm phù du hão huyền.” Câu thơ như một tiếng thở dài, nhưng không bi lụy. Đó là sự tỉnh thức, là cái nhìn chín chắn và siêu thoát trước vòng quay vô thường của cuộc đời.
“Xuân về nhớ cánh đồng xanh
Mênh mông lúa trổ nghiêng cành đón xuân
Khói lam vờn mái tranh già
Bếp hồng mẹ nhóm đậm đà tình thân.”
(Nhớ Xuân Quê Cũ)
Ở đây, Tế Luân trở về với nỗi nhớ quê hương, một vùng ký ức đầy yêu thương và bình yên. Cánh đồng lúa, mái tranh, khói lam, bếp hồng… tất cả hiện lên như một bức tranh quê dân dã, nhưng chan chứa tình mẫu tử và cảm xúc gia đình. “Bếp hồng mẹ nhóm” không chỉ là hình ảnh vật lý, mà còn là nơi giữ lửa cho tình thân, là biểu tượng cho sự ấm áp của ký ức, của những mùa xuân tuổi thơ không bao giờ phai nhạt.
Với Tế Luân, thơ ca không chỉ là phương tiện biểu đạt cảm xúc, mà là máu thịt của tâm hồn, là tiếng vọng của ký ức và niềm tin sâu sắc vào cuộc đời. Ông viết bằng tất cả những trải nghiệm từng trải qua. Chiến tranh. Chia ly. Tù đày. Và… cả những khoảnh khắc tĩnh lặng của thiền định. Thơ ông không ồn ào, không bi lụy, mà lặng lẽ chạm vào những tầng sâu nhất trong trái tim người đọc, nơi chất chứa nỗi nhớ, niềm yêu và khát vọng sống.
Mỗi bài thơ như một cánh cửa mở ra thế giới nội tâm đầy trăn trở nhưng cũng giàu hy vọng. Từ nỗi đau của những người đã ngã xuống vì Tổ quốc, đến vẻ đẹp bình dị của quê hương, tình mẫu tử, tình yêu, và sự giác ngộ trong cõi thiền, tất cả đều hòa quyện thành một dòng chảy thi ca đậm chất nhân văn và triết lý.
Như một tuyên ngôn sống, câu thơ:
“Vẫn còn ngạo nghễ tiếng cười
Ưỡn cao bờ ngực nhìn đời hiên ngang.”
Tất cả như đã kết tinh khí chất thi sĩ: kiên cường, ngẩng cao đầu giữa cuộc đời nhiều biến động. Ở Tế Luân, người ta không chỉ tìm thấy cái đẹp của ngôn từ, mà còn thấy cả tinh thần bất khuất, sự điềm nhiên trước vô thường, và một niềm tin không đổi vào giá trị của con người và nghệ thuật.
Thơ Tế Luân; vì thế, không chỉ để đọc, mà để cảm, để lắng nghe và để soi chiếu chính mình trong đó.
Y Thi Võ Phú
Tôi là một họa sĩ. Hình do Gemini Ai thực hiện.
Thật ra tôi cũng là một họa sĩ nghiệp dư. tôi vẽ rất nhiều tranh, đủ thể loại.
Tranh sơn dầu trên vải. Bức tranh này tôi vẽ khi còn ở Sài Gòn VN.
Khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi đã tháo tranh ra khỏi khung gỗ,
cuộn lại đem sang Mỹ. Tôi đã làm lại trong một khung hình
"có tấm Kính bảo vệ" đẹp hơn.
Nghe Nhạc Trên Youtube
Xin Mời thưởng thức ca Khúc Giọt Nước Mắt Khóc Cho Quê Hương
Nhạc Thiên Phương - Phô Thơ Lê Tuấn (Em cúi xuống)
Music Video By Editor Louis Tuấn Lê
Ca Khúc Viết trong tù tập trung tại
Miền Bắc Hoàng Liên Sơn
Ca Khúc Vết Loang Đọa Đầy
Mùa Xuân Trong Tù
Trại 6 Thanh Chương Nghệ Tĩnh