Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 5 tháng 11, 2018

Đời sống người Việt qua ảnh


Ngây ngất với thiên nhiên và đời sống người Việt qua ảnh
TTO - Những khoảnh khắc sống động về thiên nhiên, non nước Việt cùng những khoảnh khắc đẹp về sinh hoạt đời sống của người Việt trăm miền đã được các tác giả ghi lại và đang được giới thiệu tới công chúng Hà Nội.

 



Tác phẩm Sắc màu của biển của Trần Bảo Hòa
Đây là những tác phẩm trong số 107 tác phẩm được lựa chọn tham dự triển lãm cuộc thi ảnh Di sản Việt Nam - Vietnam Heritage Photo Awards 2018 tại Trung tâm Văn hóa Hồ Gươm, Hà Nội, khai mạc chiều 2-11 và kéo dài đến 11-11.
Triển lãm bao gồm 100 ảnh đơn và 7 bộ ảnh của 89 tác giả. Trong đó, những bức ảnh sống động chụp thiên nhiên hoang dã, biển, rừng, địa chất... cũng như những khoảnh khắc đẹp của sinh hoạt đời thường người Việt trên khắp các vùng miền đặc biệt thu hút người xem.
Những bức ảnh này cũng được giới thiệu tới công chúng TP.HCM trong ngày 3-11 tại Sân vận động Hoa Lư, số 2 Đinh Tiên Hoàng, quận 1, trong sự kiện Canon Photo Marathon 2018.
Từ 23 đến 25-11, Triển lãm tiếp tục trở lại với công chúng Hà Nội tại Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và công chúng TP.HCM tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Lễ trao giải dự kiến tổ chức tại TP.HCM vào cuối tháng 11.
Cùng đắm chìm với thiên nhiên và con người đất Việt qua những bức ảnh :


Tác phẩm Ngư nghiệp của Nguyễn Thành An

Tác phẩm Lành nghề của Nguyễn Thành An


Tác phẩm Thu hoạch thanh long của Bùi Gia Phú


Vũ điệu trên đồng của Lý Việt Dũng


Tác phẩm Bữa sáng ở chợ của Nguyễn Xuân Chính


Tác phẩm Hoàng hôn trên đỉnh Sáng Nhù của Vũ Chiến


Tác phẩm Du lịch trải nghiệm ở Mù Cang Chải của Lê Trung Kiên


Tác phẩm Mùa vàng của Lê Nhật Quang


Tác phẩm Nhuộm cói của Lê Châu Đạo


Tác phẩm Pongour Nam Phương Đệ Nhất Thác của Đỗ Tuấn Ngọc


Tác phẩm Chăm con của Lâm Hữu Phúc


Tác phẩm Dữ dội và dịu êm của Nguyễn Phước Hoài


Tác phẩm Gia đình Voọc của Hà Phước Thạnh


Tác phẩm Phù sa bãi bồi của Oee LêVăn Hào


Tác phẩm Sương sớm Mộc Châu của Cao Kỳ Nhân


Hành trình vượt sông hang Sơn Đoòng của Hoàng Thu Hương

Cuộc Sống Thi Ca.

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2018

Súng Đạn Ở Mỹ

SÚNG ĐẠN Ở MỸ
 
Tôi có hứa với bạn bè sẽ viết một bài về súng ở Mỹ. Đã có vài bạn nhắc. Đành phải giữ lời, vì sợ bị đổi họ Trần thành họ Hứa, và tên cúng cơm thành Lèo! Kêu bằng cụ Hứa Lèo, quê chết!
Tôi không phải chuyên gia súng đạn, cũng không phải “lái súng”, cho nên kiến thức có giới hạn. Biết cái gì viết cái nấy, viết về súng cá nhân, chớ không động tới vũ khí chiến lược của Mỹ. Viết để chia sẻ hơn là một bài sưu tầm. Cứ coi như tôi viết chơi, cho bạn bè đọc chơi đỡ buồn vậy.
Trước khi viết về súng ống ở Mỹ, tôi muốn đưa ra một vài thống kê, lượm từ trang americangunfacts.com, để người đọc có khái niệm tại sao dân Mỹ có quyền trang bị súng, và đó là quyền hiến định, không dễ gì có một đảng phái, hay một chính phủ nào, có thể thay đổi được:
 
+ Dân số Mỹ khoảng 300 triệu, nhưng hiện có từ 270 đến 310 triệu khẩu súng đủ loại trong nhà người dân Mỹ. Điều này không có nghĩa là mỗi người dân Mỹ từ cụ già đến bé sơ sinh, đàn ông hay đàn bà, đều có súng. Tỷ lệ dân Mỹ có súng chỉ trên dưới 30%, nghĩa là có rất nhiều người có hơn một khẩu súng trong nhà (tôi có 3 cây).
+ Người Mỹ dùng súng để bảo vệ mạng sống 80 lần nhiều hơn là để giết người.
+ Phụ nữ Mỹ dùng súng để chống lại tội phạm tấn công tình dục 200.000 lần/năm.
+ Tỉ lệ súng tính theo dân số: Mỹ 88.8%, Yemen 54.8%, Switzerland 45.7%, Finland 45.3%
+ Số người chết vì súng tính trên mỗi 100.000 người: số zách là Honduras với 91.6 người, thứ 2 là El Salvador 69.2 người, thứ 3 là Côte D’ivore 56.9 người, thứ 4 là Jamaica 52.2 người,…. USA xếp hạng thứ 103 lận, chỉ có 4.8 người chết vì súng đạn trên mỗi 100.000 dân.
 
+ Nước Anh cấm súng, nhưng có tới 2034 tội phạm hình sự trên 100.000 dân, và hơn phân nửa là dùng dao trong nhà bếp để gây án. Trong khi Mỹ cho xài súng thả dàn, chỉ có 466 trường hợp xảy ra trên 100.000 dân.. Từ khi cấm súng năm 1997, ở Anh, tội phạm tăng 77%, trung bình mỗi phút có 2 vụ tấn công.
 
+ Trong 9 nước Âu Châu cấm súng, thì tỉ lệ tội phạm cao gấp 3 lần, so với 9 nước cho xài súng.
+ FBI thống kê tội phạm giảm đáng kể khi cho xài súng: Giết người giảm 8.5%, hiếp dâm giảm 5%, tấn công giảm 7%, cướp giảm 3%.
+ Mỗi vụ nổ súng giết người hàng loạt ở Mỹ, đều xảy ra ở những địa phương cấm sử dụng súng!
+ In 1982, Kennesaw, Georgia ra luật: bắt buộc chủ gia đình phải có ít nhất một cây súng. Tội phạm đột nhập gia cư, trộm cướp, giảm 89%! Đến thời điểm hiện tại, tỉ lệ này vẫn là 85% thấp hơn so với trước năm 1982.
Đó là một vài thống kê đọc cho biết. Những thống kê tương tự, và những tư liệu khác, đã khiến nước Mỹ kiên quyết không huỷ bỏ Tu Chánh Án Số 2: Quyền sở hữu súng.
 
Second Amendment (Tu Chánh Án Số Hai) ban hành Dec 15, 1791, cho phép người dân sử dụng súng. Mọi công dân trưởng thành, đều có quyền mua súng (trừ những kẻ có tiền án tội phạm, hay bịnh tâm thần). Muốn mua mấy trăm cây súng cũng được! Luật lệ về súng đạn rất khác nhau, tuỳ theo từng Tiểu Bang. California tương đối gắt gao, so với Texas chẳng hạn. Alabama cho phép mang súng nơi công cộng mà không cần giấy phép. Có cả chục Tiểu Bang, như North Dakota, New Hampshire, West Virginia, Missouri, Idaho,… cũng dễ dãi như vậy, và khuynh hướng tự do mang súng ngày càng gia tăng ở Mỹ.
Một số người lo sợ là khi cho mang súng tự do, sẽ đem nước Mỹ trở lại thời kỳ các anh chàng cao bồi 3508, “ba nem không tém”: hôi ình, thúi quắc, cỡi ngựa, rút súng bằng bằng trong quán bar hay đường phố, hoặc thách đấu để thanh toán ân oán giang hồ với nhau. Quá lo xa! Luật lệ Mỹ chằng chịt như rễ của cánh rừng mắm Cà Mau, nhưng vô cùng nghiêm minh, cộng thêm trình độ dân trí rất cao, thì chuyện xã hội loạn như thời đó, là chuyện không bao giờ xảy ra.
Nếu thằng cu Ủn nổi cơn điên, dự tính đem quân “giải phóng” nước Mỹ khỏi sự kềm kẹp, bóc lột, của bọn tư bản “giãy hoài hỏng chịu chết”, thì ngoài chuyện sợ ăn bom nguyên tử, sợ Trump gởi tặng vài chục quả Tomahawk, bay là là, chui ngay vào gầm giường lãnh tụ, thì thế nào hắn cũng không khỏi lạnh cẳng, khi nghĩ đến con số 300 triệu, 300 triệu chớ hỏng phải 300 khẩu súng dài ngắn, nằm trong nhà dân. Mỗi người dân Mỹ sẽ trở thành một chiến binh mà không cần bắt “nghĩa vụ quân sự”! Anh nào cũng lái Hummer H2 (Humvee), hay Jeep mui trần, đeo kiếng râm đen đậm, loại đặc trị “nhìn lén người nghèo thiếu vải”, một tay cầm AR 16, một tay AK 47, lưng quảy thêm khẩu shotgun, lầm lầm lì lì như Arnald Schwarzenegger trong phim Terminator. Sau khi đùng, đùng, đùng, đến hết đạn, thì chào vĩnh biệt bằng một câu rất cool: “Hasta la vista, baby!” (See you later, Ủn! Hẹn gặp chú Ủn kiếp sau!)
Phe ủng hộ súng (đương nhiên dẫn đầu bởi những tên tài phiệt sản xuất súng) và phe chống xài súng, luôn cãi nhau ỏm tỏi, cả trăm năm qua, mà chưa ngả ngũ. Chuyện ban hành nhiều luật lệ để kềm chế, kiểm soát việc sử dụng súng, thì mỗi Tiểu Bang đều có, và đương nhiên là khác nhau rất xa. Nhưng chuyện cấm súng thì chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra.
Một lý do hiển nhiên khác mà người Mỹ quan tâm: Khi cấm dân xài súng, thì chẳng khác nào để súng lọt vào tay kẻ xấu, trong khi người lương thiện bị tước vũ khí, vì kẻ xấu sẽ có trăm ngàn cách để có súng. Người dân lương thiện chừng đó sẽ làm bia cho chúng bắn. Người dân Mỹ không đời nào chịu bị tước vũ khí. Đó là quyền hiến định.
Những năm 1990, và cao điểm là khoảng 1995, bọn choai choai tội phạm gốc Việt lộng hành. Chúng đột nhập vào nhà, cơ sở làm ăn, thậm chí những buổi tiệc tùng đông người, dùng súng huy hiếp, khảo của, tàn ác như bọn cường sơn thảo cấu Lương Sơn Bạc.
Đột nhập lúc nhà vắng, chỉ là trộm. Đột nhập khi có người ở nhà, là cướp. Bọn này rất đáng sợ. Mua súng là để trị bọn chúng.
Người Việt có thói quen xài tiền mặt, cất giữ tiền, nữ trang quí giá trong nhà, và rất thích đeo hột xoàn vàng vòng đến những nơi tiệc tùng. Người Mỹ ngược lại, gần như không xài tiền mặt, mà chỉ sử dụng chi phiếu hay thẻ tín dụng thôi. Người Mỹ cũng không cất giữ của cải trong nhà, vì sợ hoả hoạn, sợ trộm cướp. Họ thường mướn safe box ở ngân hàng để cất giữ giấy tờ quan trọng và nữ trang. Đàn bà Mỹ thích đeo nữ trang giả hơn là vàng vòng hột xoàn như đàn bà Á Châu. Cho nên người Việt là mục tiêu béo bỡ của bọn chúng thời đó. Người Việt chỉ cướp người Việt thôi.
Chúng có trăm mưu ngàn kế để đột nhập gia cư. Thí dụ, bạn đi làm về, quẹo vào garage thì thấy một cái thùng giấy hay một vật gì đó để trên driveway. Phản ứng tự nhiên là bạn ngừng xe, mở cửa bước xuống, dẹp chướng ngại vật để lái xe vào. Vừa bước xuống xe thì có đứa kè bên hong, chỉa súng vô be sườn, buộc bạn mở cửa cho đồng bọn vô nhà.
Khi đột nhập vào nhà, chúng trói gô cả nhà. Chúng dở banh thảm, cạy sàn nhà, rọc hết nệm giường, lật tung tủ lạnh,… không chừa chỗ nào! Tìm không ra của chìm, thì bắt đầu màn tra khảo. Đánh đấm nạn nhân hộc máu mồm là chuyện thường. Cắt tai, xẻo thịt cũng thường! Chúng dám đem cả con nít bỏ vào lò nướng và mở lửa. Tôi còn nghe kể, bọn nó khảo cách gì cũng không khai, chúng bèn lột quần áo bà vợ để hiếp dâm, và không quên thông báo cho hai vợ chồng biết: chúng đang mắc bệnh AIDS! Mạng quí hay của quí? Phải khai thôi! Khi nói đến sự tàn ác, người Việt cũng có hạng lắm! Gia chủ thua chúng là cái chắc!
 
Tôi có người khách Mỹ, và sau này trở thành bạn. Anh ta là cảnh sát. Tôi cũng có một người bạn Việt làm cảnh sát. Họ biết luật pháp, nên chỉ dẫn và khuyên tôi nhiều thứ:
 
+ Đầu tiên họ khuyên mua súng, và nuôi chó. Lảng vảng trước nhà, mà nghe tiếng chó sủa rân trời, nhứt định chúng lùi bước tìm mục tiêu khác dễ ăn hơn. Không có tên cướp nào dù đang cầm súng trong tay, mà không nao núng khi biết mục tiêu đột nhập cũng có đồ chơi lại. Chúng ngu gì kiếm chuyện khó, nên chúng sẽ tháo lui.
+ Chúng sợ đàn bà cầm súng, vì các bà nhát, run, bóp cò sản, đạn có khi ghim vào mình chúng như chơi! Các bà nên có súng và học bắn súng.
+ Chúng sợ nhất là shotgun. Một, khi nghe tiếng lên đạn cái rốp, dòn dã, khô khan đến lạnh xương sống, thì ba hồn chín vía chúng cũng lên mây! Hai, đạn chài shotgun gồm rất nhiều viên bi nhỏ bên trong. Khi bắn sẽ túa ra, chắc chắn chạy đàng trời cũng dính chấu. Chết chắc.
+ Handgun hay súng trường, đạn chỉ có một đầu đạn bay ra khỏi nòng. Xác suất trúng mục tiêu rất thấp, nhất là hand gun, rất khó bắn trúng mục tiêu. Trừ súng liên thanh (machine guns), xả nguyên một băng vài chục viên trong nháy mắt, thế nào cũng có vài viên trúng mục tiêu.
Nói về luật pháp, họ khuyên rất nhiều điều:
 
+ Không bắn thì thôi, hễ quyết định bắn thì phải bắn cố sát, bắn cho tử ẹo, chớ không bắn què giò. Xác chết thì câm, thằng què còn miệng, nên còn ra toà nói ngược nói ngạo. Có khi nạn nhân như mày lại thành tội phạm, còn tội phạm như nó lại thành nạn nhân! Nên nhớ, nó đáng chết, chớ mày không đáng đi tù!
+ No mercy! Just destroy him before he kills you! Nó xâm nhập vô nhà mày, nhứt là nó có vũ khí, thì cái rủi ro mày và người thân bị nó sát hại vô cùng cao. Phải tự vệ, và bảo vệ người thân. Không thương xót! Hãy tiêu diệt nó trước khi nó diệt mình!
+ Khi bắn phải bắn từ phí trước. Bắn từ lưng là tù, bởi vì toà nói rằng: Mầy cố sát chớ không phải tự vệ! Nó đã bỏ chạy, đâu còn nguy hiểm tới mày, mà mày cố tình giết nó? Cho dù nó đã đột nhập vô nhà, có vũ khí, thậm chí đã gây thương tích cho mày, một khi nó quay lưng bỏ chạy, thì không được bắn nó.
+ Sau khi hạ gục nó, mày nhớ bắn một viên lên trần nhà.Toà không biết mày bắn viên đó trước hay bắn sau đâu. Cứ nói rằng mày đã bắn một phát chỉ thiên để doạ nó trước rồi, nhưng nó vẫn nhào tới, buộc lòng mày phải hạ gục nó để tự vệ.
+ Nếu nó uy hiếp, khống chế được người thân của mày, mày có buông súng đầu hàng theo lệnh của nó không? Cái đó tuỳ theo quyết định của mày, nhưng nếu là cảnh sát, tụi tao không bao giờ buông súng đầu hàng, ngay cả khi nó chỉa súng vào đầu đồng đội. Rất dễ hiểu: Khi mày buông súng thì đồng đội mày, và chính mày sẽ bị nó giết. Chết gọn cả hai. Mày bắn giỏi, bắn chính xác, có thể mày hạ được nó mà cứu đồng đội trước khi nó bóp cò, để cả hai cùng sống. Worst case là nó nhanh tay hơn, nổ súng giết đồng đội mày, thì ít nhất mày cũng giết được nó, trừ đi một kẻ xấu cho xã hội, trả được thù cho đồng đội, và cứu được mạng mày luôn. Lời hơn, đúng không? Chọn nổ súng, chỉ có lời ít hay lời nhiều, chớ không có lỗ. Buông súng, lỗ cạn tàu ráu máng!
 
Nghe họ nói tôi mới hiểu tại sao khi cảnh sát bắn là bắn vô tử huyêt để tiêu diệt mục tiêu. Nghe họ nói mới biết thêm nhiều thứ, và tôi dạy các con tôi y như vậy. Vì tự vệ, nên buộc lòng phải bóp cò.. Không bắn nó, nó sẽ giết mình và người thân. Không tội tình gì trước pháp luật. Cũng không tội tình gì trước lương tâm và Thượng Đế.
Tôi cũng dạy các con: Nếu bị bắt cóc, nhứt định phải chống cự, vừa chạy vừa la. Chạy có thể bị nó giết, nhưng có cơ hội thoát hiểm, sống sót, dù chỉ vài phần trăm. Còn không chạy, không chống cự, để nó bắt đi, thì chết chắc 100%. Chọn vài phần trăm sống, hay chọn 100% chết? Đó là chọn lựa vô cùng khó khăn, đòi hỏi tháo vát, can trường, vì sống và chết chỉ là đường tơ kẽ tóc.
Tôi chưa từng cầm súng. Nhưng tôi có cơ sở kinh doanh, mua bán ì xèo, đương nhiên là có tiền mặt, buộc lòng tôi phải tìm cách bảo vệ gia đình và cơ sở làm ăn của mình. Mua súng, xài súng, là chuyện bất đắc dĩ, nhưng phải làm ở thời điểm đó.
Tôi sắm 3 khẩu súng, hai súng ngắn (handguns) và một khẩu súng săn shotguns (xem hình gởi kèm). Các con tôi chưa xong high school, nhưng đứa nào cũng sử dụng súng thành thạo. Tôi và cậu con trai không cần nói. Nhưng ba cô con gái ốm yếu, nhát hít, vẫn bồng shotgun lên, nạp đạn, bắn đùng đùng. Ban đầu sợ. Bắn vài phát, không những hết sợ, mà còn thấy thích. Handguns nhẹ, ít giựt, nhưng bắn khó trúng bia hơn shotgun. Hằng tuần tôi chỡ các cháu đến trường bắn. Ai không có súng thì họ cho mướn súng, chỉ cần mua đạn, mua bia, rồi bắn bao nhiêu cũng được. Ai có súng thì đem tới, chỉ cần mua đạn, bắn tới chán thì thôi.
Ở Mỹ, tiệm bán súng công khai, đầy dẫy, khắp nơi. Mua súng dễ như mua con cá, bó rau. Ở Cali, chỉ cần chọn súng, đặt cọc, điền một mẫu đơn rất ngắn gọn, để tiệm súng gởi cho chính quyền điều tra lý lịch. Nếu không có thành tích bất hão, hay bịnh tâm thần, thì từ hai tuần cho tới một tháng, bạn có thể đến trả nốt phần tiền còn lại, và mang súng về nhà.
Thời gian chờ đợi ngoài việc để chính quyền rà soát lý lịch hình sự, nó còn là thời gian giải nhiệt (cooling period). Tại sao gọi là thời gian giải nhiệt? Thí dụ, có một anh chàng bị con vợ nó cắm cho cái sừng nhọn hoắc, dài một sãi, lủng xuyên sọ đầu. Hận người tình, hận thằng tình địch, hận đời, hận lung tung,… Phen này ông sắm súng để tiễn chúng bay vô địa ngục. Trong hai tuần hay một tháng chờ đợi, anh ta suy nghĩ miên man: Nó không còn yêu thương mình, ép uổng gì? Giữ người ở, ai giữ người đi? Tại nó lăng loàn trắc nết theo trai, chớ một bàn tay làm sao vỗ thành tiếng, giết thằng kia chi cho thêm nghiệp chướng? Còn đàn con, giết vợ rồi vô tù, ai lo cho chúng?... Cooling down, đổi ý. Đem súng về cất đó phòng thân trộm cướp, chớ không phải thanh toán đôi gian phu dâm phụ nữa. Xã hội bớt đi một thãm cảnh.
Súng cũng rẻ mạt. Từ vài trăm cho tới vài ngàn đều có. Ngày xưa mua AK 47 hay AR 16 cũng được. Từ ngày có những vụ dùng súng tự động bắn giết ở trường học, sở làm, thì Cali và nhiều Tiểu bang cấm..
 
Để tôi viết sơ qua về ba cây súng tôi có, thuộc ba loại khác nhau – revolver, piston, và shotgun - cho người chưa từng đụng tới súng, biết khái quát. Ngoài ra còn nhiều loại khác như súng trường đi săn, súng liên thanh,… thuộc loại quá dữ, không cần thiết cho phòng thân, nên tôi không nghĩ tới. Chỉ viết rất khái quát, ai muốn tìm hiểu thì hỏi thằng Google nó tả tỉ mỉ hơn..
+ Cây revolver là súng có ổ đạn tròn, thường gọi trái khế, chứa 5 hay 6 viên đạn. Đây là loại súng mà các tay cao bồi Mỹ thường xài, ai coi phim cũng biết. Trong phim thường thấy cái trò chơi quay trái khế: nhét chỉ 1 viên vô trái khế, quay cái rẹt, kê súng vô màng tang, nín thở bóp cò, coi thằng nào tới số?
Revolver có hai loại. Loại single action, khi bắn phải dùng tay trái, hay ngón tay cái của tay cầm súng, bật ngược cò mổ ra sau, mới bóp cò. Double action, chỉ cần bóp cò, thì cò mổ bật ra sau, sau đó giã vô viên đạn. Loại này con cò bóp rất nặng, nhưng tiện dụng, khá nguy hiểm, và ai cũng có thể bắn mà không cần biết phải lên đạn cách nào. Cứ bóp cò là nổ. Cây tôi sở hữu là double action, của hảng Smith & Wesson, dáng rất đẹp, giá hơn $400 (năm 1996). Cây này thuộc thứ dữ, Magnum, công phá rất mạnh, mua để ở nhà.. Bắn giật khá mạnh. Chỉ sáu viên đạn. Đạn to, nhưng giá rất rẻ, khoảng 25 cents/viên. Các con tôi đều biết sử dụng thành thạo, trừ bà xã nhất định không muốn đụng tới súng đạn.
+ Cây Pistol mini, của hảng Beretta, giá cũng khoảng $400 USD. Có lẽ hảng Colt đầu tiên làm ra loại súng pistol này, nên người ta lấy tên của nó mà đặt. Colt 45 là loại trang bị cho sĩ quan VNCH. Còn phe kia thì thông dụng với K54. Khi bắn phải dùng tay kia kéo phần trên của nòng súng ra sau, rồi buông ra, để nó đẩy viên đạn lên nòng, mới bóp cò. Gọi là lên đạn. Nó có khoá an toàn, nên loại này khá an toàn nếu nhà có con nít.
Tôi chọn khẩu súng này vì nó rất nhỏ, gọn, với mục đích sẽ bỏ nó trong túi quần khi làm việc ở tiệm. Đạn bé tí tẹo, nhưng giá cả 50 cents/viên. Nó nhỏ gọn như đồ chơi con nít, bắn như không bắn, vì nó nổ nhỏ, và giựt rất nhẹ. Đàn bà Mỹ thích nó, vì nó gọn nhẹ, bỏ trong xách tay được. Cây này có 8 viên chớ không phải 6, như “súng lục” ở VN xưa kia: Một viên lên nòng, 7 viên trong băng đạn. Tôi thường nhét sẵn một viên lên nòng, và 7 viên trong băng. Như vậy khi bắn, khỏi cần lên đạn, chỉ bật khoá an toàn trong nháy mắt. Băng đạn nhỏ bằng hai ngón tay. Một băng nạp vô súng, một băng để sơ cua, thì cũng có 15 viên để ứng chiến!
Hễ gặp khách có vẻ dân chơi, nhất là buổi tối, thì tay trái tôi cầm phone, sẵn sàng ấn 911, còn tay phải thọt vô túi, ngón trỏ nằm sẵn ngay cò súng. Khi cần, không thèm móc ra, ngón cái nâng nhẹ lên mở khoá an toàn, và ngón trỏ bóp cò dễ dàng. Nếu là dân chuyên xài súng, thấy tôi thủ kiểu đó là nó biết ngay. Đương nhiên là chuồn lẹ, nếu không muốn ăn trọn 15 cục kẹo đồng!
+ Shotgun, giá chỉ trên hai trăm một chút. Dài như súng trường. Nặng. Đạn chài khoảng 70 cents/viên. Ỗ chứa được bốn viên đạn. Không tự động. Bắn một viên xong phải kéo phần tbên dưới nòng súng cho văng vỏ đạn ra, sau đó đẩy ngược lên để lên đạn viên kế tiếp.. Tiếng lên đạn rất to, nghe thót ruột. Còn một loại bẻ cúp nòng súng xuống để nhét đạn vào, không tiện dụng và có vẻ lỗi thời. Shotgun bắn cũng không giựt mạnh lắm. Súng này luôn để trong nhà. Thằng nào có gan cạy cửa, chỉ nghe lên đạn cái rốp là chạy không kịp quay đầu ngó lại.
Chính vì cướp bóc lộng hành, tui phải thủ rất kỹ. Ngoài việc mua súng, mỗi tối lái xe về, phải coi có đứa nào chạy theo không? Về tới nhà, nhìn xung quanh coi có xe lạ đậu gần nhà mình không? Coi có thằng nào lảng vảng trước cửa? Trước khi tới nhà vài block đường, phải ngừng xe lại, mở cốp xe lấy đạn nạp vào súng. Biết là trái luật, nhưng vẫn làm. Luật Cali buộc khi chuyên chỡ súng, thì súng phải bỏ trong hộp có khoá. Súng và đạn không được để gần nhau. Súng trong xe, thì đạn phải trong trunk sau xe.
 
Người Việt hải ngoại đã trãi qua một giai đoạn hãi hùng. Cảnh sát và FBI vô cùng vất vả để tiêu trừ đám cặn bã này, nhưng dường như bó tay, vì chúng quá đông, quá dữ, và quá liều mạng. Khi con ma nghiện nó hành, thì chuyện gì chúng cũng làm để có tiền đi hút. Sau cùng, chính quyền đã tìm ra giải pháp: Trục xuất!
 
Đúng vậy! Trục xuất! Họ deal với VN, mỗi thằng du đãng tội phạm, bị trục xuất, họ trả cho vài chục ngàn đô (hay cả trăm ngàn, đại khái là rất nhiều tiền).
Đối với Mỹ, điều này lợi trăm bề. Một, dẹp được tệ nạn. Hai, chỉ tốn một số tiền nhỏ, tốn một lần cho VN, hơn là nhốt bọn chúng vào tù, nuôi dai dẳng, nuôi tốn gấp nhiều lần con số tiền trả cho VN.
Đối với VN họ cũng lợi trăm bề. Nhận một thằng, họ bỏ túi bộn bạc. Bỏ gọn lỏn vào túi! Đem nhốt chúng, đâu có tốn đồng xu nào, vì bắt chúng làm khổ sai, bỏ đói xanh xương, sinh lợi nhiều gấp mấy lần tiền lẻ bỏ ra nuôi chúng.
Còn đối với mấy thằng du đãng tội phạm, sợ té đái! Trục xuất là mất cơ hội vô quốc tịch, hay bị thu hồi quốc tịch. Muôn đời trâu ngựa ở bển! Phải nói, chúng sợ tù VN hơn là sợ bị bọn tù Mỹ đen đánh đập hay hiếp dâm chúng!
Trên thế giới có lẽ chưa có tù nào khủng khiếp bằng tù VN. Hỏi mấy ông tù HO, hay những người từng ăn cơm tù thì biết. Người viết đâu có nói thêm, hay xuyên tạc chút nào. Đừng ném đá, tôi ném lại đó nghen!
Từ ngày đó, cướp có súng không phải chỉ bị phạt tù vài năm, mà là trục xuất cho nếm mùi tù thật sự của CS. Thằng nào thằng nấy sợ teo, bu gi còn bằng hột đậu phộng lép! Cướp có súng từ bọn du đãng Việt, coi như tuyệt nọc!
 
Cám ơn chánh phủ Mỹ vô cùng sáng suốt, biết đường binh! Cám ơn “đảng ta”, “chính phủ ta”, có thuốc trị được cơn bịnh hiểm nghèo, giúp cho hàng triệu khúc ruột ngàn dậm thân yêu, được an cư lạc nghiệp! Chúng tôi yên tâm kinh doanh, mới có tiền gởi về bển chớ. Cũng rất công bình. Người Việt hải ngoại thật sự có được những năm tháng bình yên từ ngày đó đến nay.
Mua súng cũng giống như bạn phải sắm bình chữa lửa và cái thang dây để trong nhà, phòng khi có hoả hoạn. Dù để hoài không xài tới, cũng đừng tiếc tiền mua. Bạn không bao giờ trông cho nhà cháy để có cơ hội dùng tới bình chữa lửa, hay dùng cái thang dây cho cả nhà leo xuống từ lầu hai, phải không? Nhưng nếu bạn không cụ bị những thứ đó, khi hữu sự, bạn chỉ có đứng nhìn thần hoả thiêu rụi cơ ngơi mồ hôi và nước mắt của mình một cách vô vọng, hay bạn và người thân phải liều mạng nhảy lầu, tránh chết cháy, vì không có thang dây.
Đâu có ai trông cho kẻ xấu đột nhập vô nhà mình để đem súng ra phơ chúng! Nhưng cũng đâu có ai muốn kẻ xấu đột nhập vô nhà mình, mà trong tay không một tấc sắt? Súng là giải pháp bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Dù mình không mong có dịp xài tới nó, nhưng không có thì không được. Tuy nhiên, nếu một xã hội vô pháp vô cương, và không có trình độ dân trí cao (đi đường lỡ cọ quẹt một chút cũng xách mã tấu ra thanh toán), thì súng sẽ là một hiểm hoạ không biết tới đâu mà lường!
 
Peter Chánh Trần

Thiến (Truyện ngắn)

Thiến!

Khuất Đẩu

Khi tôi còn bé, những buổi trưa ở thôn quê thật buồn. Chỉ có nắng ngùn ngụt như bốc khói.. Và gió, những cơn gió hừng hực đuổi lũ rơm rạ cuống quít chạy trốn trên đường làng. Cái tiếng gà trưa lúc này nghe ra đúng là thật não nùng. Mà cái tiếng của một ông thợ hoạn lại càng não nùng bi thiết hơn!

He…o thiến hôn?

Đỗ Mười , xuất thân nghề thiến heo
(Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rất đúng với trường hợp Đỗ Mười làm cải tạo công thương nghiệp.. Cũng đúng thôi, vì ông Mười xuất thân từ nghề hoạn lợn thiến heo sau đi theo cách mạng. Ông đâu có được học hành gì, bởi thế những suy tư và hành động của ông là suy tư và hành động của những tên lưu manh, vô lại, khi bỗng nhiên có chức, có quyền.  ) 
 Trích Nguyên Hồng , dân làm báo

Âm “he…o” kéo dài tưởng chừng lê lết bỗng đột ngột vút lên cái âm thiến sắc nhọn như lưỡi dao của ông. Lũ heo trong chuồng mà nghe và hiểu được như người chắc là sợ chết khiếp.

Thế rồi đâu đó có tiếng chủ nhà: Ông thiến ơi, vào đây!

Những con bị thiến là heo cái chừng hơn một tháng tuổi. Cô ả bị người thợ hoạn treo ngược lên, rạch một đường bên hông, đưa mấy ngón tay mò mẫm rồi lôi ra một chút thịt sống đẫm máu gọi là hoa sung. Sau đó là may với kim thiến heo thật to, không bôi thuốc đỏ mà bôi lọ nghẹ trộn với lá dâm bụt. Cô ả được thả vào chuồng, được chăm chút, chỉ ăn rồi ngủ, để rồi sáu tháng sau hoặc hơn, lại được treo ngược lên một lần nữa, lần này không phải ông thợ hoạn mà là anh đồ tể.
Cái tiếng ụt ịt nũng nịu thầm thì bấy lâu bỗng đổi thành cái tiếng ét chói tai như con tàu kéo hồi còi vĩnh biệt.

Gà, chỉ có gà trống mới thiến. Một khi hai hòn dái giấu kín trong bụng được lấy ra, anh không thèm gáy, không thèm đá lộn, đương nhiên không thèm túc túc cù rủ và nhường con trùn hay con dế cho các chị gà mái nữa, chỉ ăn toàn bắp ngâm nước cho mềm ra để tạo mỡ. Cuối tháng chạp, anh được nhốt trong một chiếc lồng hình con vịt, được các chàng trai khúm núm đem đi tết bố mẹ vợ sắp cưới. Để rồi sau đó anh nằm bảnh chọe trên một chiếc đĩa to kềnh mỡ vàng tươm ai thấy cũng thèm!
Chó bị thiến cũng là chó đực. Thiến để anh không đi tơ, để đêm ngày nằm gác mõm trên thềm nhà canh giữ sự an nguy cho chủ. Vì sợ hai hàm răng trắng nhởn có thể ngoạm vào bất cứ ai trong cơn hốt hoảng, nên người ta vuốt ve cho anh ngúc ngoắc đuôi ngoan ngoãn rồi bất ngờ úp một cái cối giã gạo lên đầu anh. Thế là hai hòn dái quý báu của anh cứ việc phơi ra cho người ta xẻo một nhát đi đứt. Khi được thả ra, anh chạy biến, trốn vào một bụi rậm, nằm liếm mãi cái vết thương cho đến khi khô máu mới dám thập thò trở về nhà. Anh được chủ yêu hơn, cưng chiều hơn, trở thành một thành viên tận tụy của gia đình, đến lúc già chết được đeo mấy đồng tiền vào cổ để đi đò qua sông Mịch La.
*
Với con người, ba tiếng “đau như hoạn” nhất định là thống thiết hơn cái tiếng ét hay tiếng ẳng. Đó là nỗi đau không được làm đàn ông. đau vì những người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ.
Còn hơn đau, đó là nỗi nhục.
Trong cổ kim, chỉ có một người biến nỗi nhục đó thành vinh, là Tư Mã Thiên. Bị kết tội chết vì bênh vực Lý Lăng, không có tiền chuộc mạng, ông đành nghiến răng chịu thiến.. Không đẻ được con bằng xương bằng thịt, ông dành cả đời để đẻ ra đứa con tinh thần bất tử là bộ sử ký vĩ đại của nước Trung Hoa cổ đại.
Nhưng cũng có nhiều kẻ chịu đau chịu nhục chỉ để để trở thành hoạn quan.
Carter Stent miêu tả về việc cát thể (hoạn) ở Trung Hoa cuối đời Mãn Thanh như sau:
Trước khi cát thể, người có ý định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi, và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.
Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết.
Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà vú (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà vú này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”.
Kinh hoàng như thế nhưng nhiều người vẫn xâm mình chịu trận, đủ biết cái bả vinh hoa nó có một hấp lực còn mạnh hơn cái bản năng gốc đã được tạo hóa cài đặt từ trong bụng mẹ.
Từ khi có chế độ cộng sản thì cái nước Tàu mênh mông không còn tiếp diễn cái cảnh man rợ đó nữa. Nhưng để được đứng dưới ngọn cờ của Đảng, có biết bao người đã tự hoạn. Hai tiếng “đồng chí” hết sức trung thành đã thay cho hai tiếng “hoạn quan”. Họ không chỉ phục dịch mỗi hoàng đế Mao Trạch Đông mà cả trăm cả ngàn ông hoàng bà chúa bé hơn ở Trung Nam Hải.
Nước Nga đâu khác gì.
Bắc Triều Tiên cũng vậy.
Thì thôi, đành một nhẽ. Dẫu sao họ cũng tự thiến chứ không phải bị đè ra thiến.
Ở xứ ta, từ khi có người gọi đích danh tự do là cái con cặc, thì cả nước bỗng ngớ ra bởi vì, sao trông nó buồn thiu ỉu xìu đến như vậy. Hóa ra nó đã bị thiến tự bao giờ! Cho dù không bị treo ngược lên như heo hay úp một cái cối giã gạo lên đầu, nhưng hơn nửa thế kỷ nay, từ khi vào mẫu giáo, nó đã bị bóp cho nát bét ra cái tư tưởng tự do như hai cái dịch hoàn, thì còn đâu khí thế mà vùng lên được.
Cho nên dẫu có muốn ngồi nhìn hòn dái đâm đinh như nghệ sĩ Pyotr Pavlensky trình diễn Fixation bằng cách đóng đinh bìu dái mình trên Quảng trường Đỏ cũng không còn dái đâu mà đóng...

Ô hô, cả nước bị thiến! Đúng là đau như hoạn! ./.

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2018

Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh


Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh 

Tác Giả: B/s Đỗ Duy Ngọc 

04/10/2018

Lời giới thiệu: 

Đỗ Mười, cha đẻ của cải tạo tư sản Miền Nam vừa mới qua đời. Đâu đó trên mạng, người ta gọi ông là bồ tát. Chiến dịch đánh tư sản miền Nam đã khiến hàng trăm ngàn người khốn đốn, nhiều người thiệt mạng ở các vùng kinh tế mới hoặc trên đường vượt biên mà phần nhiều hệ lụy từ đây mà ra.
Chính sách của ĐCS mà ‘bồ tát’ Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy thực hiện đã đẩy nền kinh tế của miền Nam và qua đó là của cả Việt Nam lùi lại hàng chục năm.

Dưới đây là một bài viết về văn học, nhưng thực tế, những năm sau 75 và thập niên 80s thậm chí còn nhiều mảnh đời ngang trái, éo le hơn nhiều.
Chúng tôi xin đăng lại nhân lúc những tranh cãi về Đỗ Mười công và tội đang sôi nổi.
Hồi mới vô Sài Gòn, tôi thuê căn nhà nhỏ trên kênh Nhiêu Lộc ở cùng với mấy người bạn. Đầu hẻm ở mặt tiền đường có một tiệm tạp hoá của một gia đình người Hoa. Có người gọi là tiệm chạp phô. Chắc là gọi theo tiếng Quảng.
Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, lúc nào cũng mặc chiếc áo thun ba lỗ với cái quần chỉ ngắn đến đầu gối. Chú đi chiếc xe Honda Dame màu đỏ, loại bán cho quân nhân hồi xe Honda mới nhập vào miền Nam.

Có hai lí do mà đám sinh viên chúng tôi để ý đến tiệm tạp hoá này. Thứ nhất tiệm này cần mua gì cũng có, bán giá rẻ hơn nơi khác, dù chỉ vài đồng, nhưng sinh viên nghèo mà, rẻ hơn đồng nào đỡ đồng đó. Tiệm lại luôn mở cửa để bán hàng cho khách. Nhiều lần đi chơi đêm về khuya lắc lơ, muốn mua mấy gói mì hay chai bia con cọp, đập cửa rầm rầm, chú vẫn vui vẻ mở cửa bán hàng.

Thứ hai là chú có cô con gái khá dễ thương. Tóc bím hai bên, da trắng hồng, lại hay mặc áo cắt theo kiểu người Hoa, nhìn ngộ lắm. Cô bé chắc nhỏ hơn tụi tôi vài tuổi. Thằng nào đi đâu về trước khi vào hẻm cũng liếc vào xem cô bé có ở tiệm không, dù chưa đứa nào tán được cô bé một câu. Chú tên A Tỷ, cô bé tên Tiểu Thanh. Biết tên cô bé là do công của tôi. Một lần vào tiệm mua đồ, chú A Tỷ lấy hàng, cô bé ngồi học bài ở gần kệ thu tiền, tôi thấy trên nhãn vở đề tên Tiểu Thanh bằng tiếng Hoa. Tôi là dân học Việt Hán, hai chữ này cũng dễ đọc nên tôi đọc được ngay. Tôi hỏi: Em tên Tiểu Thanh à? Cô bé ngước lên nhìn tôi, đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên, cười rồi lại cúi xuống không trả lời.

Chú A Tỷ đưa hàng, tôi không có lý do gì nán lại, đành đi về. Về nhà, tôi nổ với mấy đứa cùng phòng là đã nói chuyện được với cô bé, biết được tên cô bé, mấy đứa phục tôi lắm !
Chú A Tỷ cũng được mọi người chung quanh và cả những người ở trong xóm sâu thương yêu vì chú lúc nào cũng nhẹ nhàng, mua bán đàng hoàng, biết gia đình nào khó khăn, có khi chú không lấy tiền, lại cho thêm vài món. Nhờ thế, chú buôn bán phát đạt, hàng hoá càng ngày càng phong phú.

Tết đến, chú mang tặng những gia đình nghèo trong xóm "bờ kênh nước đen" gói quà có mứt, bánh và lạp xưởng. Họ biết ơn chú lắm nên mua gì cũng ra tiệm của chú. Ăn Tết xong, chú sửa nhà, xây thêm hai tầng, cửa tiệm bây giờ không còn là tiệm tạp hoá nho nhỏ nữa, mà là một cửa hàng rộng rãi với hàng hoá chất đầy. Đàng sau, chú làm cái kho, chứa gạo, đường , sữa… đầy nhóc. Mà quên, chưa nói đến vợ chú. Đó là người đàn bà Hoa có khuôn mặt phúc hậu, ít nói nhưng hay cười. Cũng là người tốt như chú. Chiều chiều, ngồi bán hàng, thấy mấy đứa nhỏ đi học về, bà hay kêu vào, lúc cho cái bánh, khi cho cái kẹo nên mấy đứa nhỏ thương bà lắm ! Lúc nào gặp bà cũng vòng tay chào rất lễ phép.
Từ hôm biết tên cô bé là Tiểu Thanh, tôi lại càng siêng ghé tiệm của chú mua đồ, có khi mấy đứa bạn cần mua gì, tôi lại xung phong đi mua giúp. Nhưng cũng hiếm khi gặp cô bé, nhất là khi nhà có thêm tầng lầu, chắc là cô bé ngồi học trên đó. Mà hoạ hoằn có gặp, tôi cười chào thì cô bé cũng chỉ nhoẻn cái miệng rất xinh cười lại thôi, chứ chẳng nói được gì !

Nhưng rồi tôi cũng gặp may một lần. Hôm đó trên đường từ Đại học Văn Khoa về, xe bus thả tôi xuống đầu đường Trương Minh Giảng. Vừa xuống xe thì gặp Tiểu Thanh đang loay hoay với chiếc xe đạp tuột xích. Trưa nắng gắt, cô bé sửa hoài mà không gắn được sợi xích vào ổ líp, mặt đầy mồ hôi, má ửng hồng vì nóng. Thế là tôi ra tay hiệp sĩ, sửa xe cho nàng, rồi luôn tiện xin đi ké chở nàng về luôn. Từ đó, tôi thường gặp cô bé hơn qua những cuộc hẹn. Thì cũng chỉ đi loanh quanh bằng chiếc xe đạp của Tiểu Thanh, bởi lúc đấy tôi chẳng có xe xiếc gì, đi đâu cũng cuốc bộ hay đi xa hơn thì có xe bus vàng. Đi ngồi quán thì cũng chỉ là những quán chè, quán nước bên đường hay mấy quán gỏi đu đủ, bột chiên.

Có lẽ cô bé cũng biết tôi là sinh viên nghèo nên em chẳng bao giờ có ý kiến chi ! Nói chuyện với nhau thì cũng là chuyện nắng mưa, chuyện học hành, luẩn quẩn lần nào cũng từng đấy chuyện. Tôi cũng hay hỏi em về những chữ Hán, những bài thơ Đường dù lúc đấy em mới học lớp 11 theo chương trình của Đài Loan. Tình thì cũng đã bén rồi, nhưng cả hai chẳng ai đề cập đến.... Đến cái nắm tay, cái vuốt ve cũng chưa có dù cả hai đã có mấy lần vào Rex xem phim. Thế nhưng mấy đứa trong phòng thường được nghe tôi kể xạo như trong tiểu thuyết Quỳnh Giao, lãng mạn lắm, tình cảm lắm, thằng nào cũng phục lăn, lè lưỡi thèm thuồng !
Cuối năm đấy, tôi có được một học bổng của Bộ Giáo Dục đi du học ở Pháp. Mừng vì được đi nước ngoài học nhưng cũng buồn vì xa Tiểu Thanh dù tình cảm cũng đang lửng lơ nửa vời. Tôi và Tiểu Thanh ngồi với nhau ở kem Bạch Đằng, đây là lần đầu tiên tôi xài sang thế. Và cũng lần đầu tôi cầm tay Tiểu Thanh để thông báo cho nàng tôi sắp đi học xa. Tiểu Thanh vẫn để yên bàn tay của em trong bàn tay tôi và em khóc. Tôi hỏi: Em chờ anh được không? Em bảo: Em chờ, bao lâu em cũng chờ. Ba em đang chuẩn bị cho em sang Đài Loan học Đại học, nhưng chắc em không đi. Em không muốn sống xa Ba Má, không nỡ để Ba Má ở một mình. Em ở lại Việt Nam, chờ anh về !
Và thế là tôi đi. Hành trang tôi mang theo chẳng có gì, chỉ là chiếc va-li nhỏ. Tiểu Thanh gởi tôi món quà là chiếc khăn tay có thêu tên tôi và tên nàng và một lá bùa nhỏ gói trong chiếc khăn màu đỏ rực. Nàng bảo đó là lá bùa hộ mệnh giúp tôi luôn được mạnh khoẻ và sẽ thành công. Mấy năm ở Pháp, tuần nào tôi cũng gởi thư về cho nàng, và tuần nào tôi cũng nhận được thư của Tiểu Thanh. Tôi cũng thường gởi quà cho em, sinh viên nghèo, học bổng chẳng là bao, chỉ đủ chi tiêu tằn tiện nên quà cũng chỉ là những món đồ kỷ niệm ít tiền, nhưng Tiểu Thanh rất vui. Nàng cũng báo tin là Ba Má nàng đã chấp nhận không qua Đài Loan học nữa. Và Tiểu Thanh trông ngóng tôi về.
Giáng sinh năm 1974, tôi về nước. Tiểu Thanh bây giờ là một cô gái hăm mốt tuổi, xinh hơn nhiều trong ý nghĩ của tôi. Chú A Tỷ vẫn vậy, vẫn cái áo thun ba lỗ và chiếc quần ngắn ngang đầu gối và vẫn cỡi chiếc xe Honda Dame màu đỏ. Tôi và Tiểu Thanh bàn cách để nói chuyện với chú A Tỷ xin cưới Tiểu Thanh làm vợ. Bởi phong tục người Hoa không muốn con gái lấy trai Việt, nên đó là cản trở lớn nhất của chúng tôi. Chưa có dịp để nói chuyện thì chiến sự càng ngày càng gay cấn. Và rồi 30.4.75, bộ đội miền Bắc chiếm được Sài Gòn. Chú A Tỷ vẫn bình thản vì chú bảo mình làm ăn lương thiện, chế độ nào cũng cần phải ăn để sống, chú cũng chẳng tham gia chính quyền cũ, chú sống tốt với mọi người, chú không có kẻ thù, chú không có gì phải ngại chính quyền chế độ mới.

Nhưng rồi tai hoạ ập xuống gia đình chú. Vợ chú bị đau ruột thừa, vào bệnh viện, tình hình đang lộn xộn, bác sĩ cũ lớp thì di tản, lớp thì còn đang e ngại, lớp thì đi học tập chưa về, đa số là các bác sĩ và y tá trong rừng ra và ngoài Bắc vào. Chẳng biết họ chữa làm sao mà thím A Tỷ bị vỡ phúc mạc, chết trên bàn mổ. Tiểu Thanh khóc sưng cả mắt, chú A Tỷ thì như người mất hồn, cứ đi ra đi vào và hỏi sao lại thế, sao lại thế? Lúc đấy xã hội lộn xộn lắm, ai cũng thu mình lại, giấu mình đi vì sợ. Bang hội của chú cũng đến giúp tang ma. Tôi cùng bạn bè và bà con trong xóm cũng lặng lẽ đến để đám tang được trọn vẹn. Chú A Tỷ ngơ ngẩn cả tháng trời, Tiểu Thanh cũng buồn bỏ cả ăn uống, người gầy rạc đi ! Thế là chúng tôi chưa có dịp để nói chuyện cưới xin, mà phải đợi ít năm nữa sau khi mãn tang mới bàn tính được.

Nhưng tai hoạ không chỉ dừng lại đó, mấy tháng sau gần ngày tết Trung thu năm 75, lúc đó khoảng bảy giờ tối, Tiểu Thanh hốt hoảng đạp xe đến báo cho tôi hay là bộ đội VC vào nhà, đang kiểm kê và niêm phong hàng hoá, kết tội chú A Tỷ là tư sản bóc lột, làm giàu trên xương máu nhân dân. Tôi chở nàng chạy về thì thấy bộ đội VC súng ống kè kè đi với một đám tay đeo băng đỏ cũng rần rộ súng ống đang lùng sục trong cửa hàng, mặt ai cũng đằng đằng sát khí. Chú A Tỷ thì vẫn áo ba lỗ và quần ngắn thường ngày, ngồi gục đầu như tượng, họ bảo ký vào đâu thì ký vào đó, không nói một lời. Tiểu Thanh thì run rẩy đứng tựa vào người tôi, đôi mắt mở to, uất hận đầy nước mắt nhưng cũng chẳng nói gì !
Đến nửa đêm thì họ đọc quyết định tịch thu hàng hoá và căn nhà, ra lệnh gia đinh`chuẩn bị để đi vùng kinh tế mới. Lúc đó chú A Tỷ ngã ra bất tỉnh, Tiểu Thanh cũng gục trên vai tôi, mặt xanh như xác chết. Cả một đời gầy dựng, cả một đời làm ăn lương thiện, chỉ một lời quyết định, CSVN đã lấy hết, tịch thu hết lại còn kết án là kẻ bóc lột, đuổi đi vùng kinh tế mới.

Chú A Tỷ vừa lay tỉnh, chú nhìn quanh, hét lên một tiếng lớn, đầy căm hờn như tiếng thú trong cơn tuyệt vọng cùng đường, rồi lại ngã ra sàn bất tỉnh lần nữa ! Tiểu Thanh cũng thét lên tiếng thét ai oán: Ba ơi ! rồi gục trên thân thể lạnh giá của cha. Tình trạng thảm thương đó chẳng làm động lòng đám người thi hành lệnh, họ vẫn mặt lạnh như tiền, súng gờm gờm trên tay như sẵn sàng nhả đạn những ai có hành động phản kháng. Hàng hóa ngổn ngang, không khí như nén lại. Tôi bất lực chẳng biết phải làm gì ngoài việc cứ xức dầu cho chú A Tỷ.
Sáng hôm sau, đoàn xe đến chở người đi vùng kinh tế mới. Tiếng loa oang oang như nhói vào tai, bộ đội, du kích súng ống kè kè đưa từng hộ gia đình lên xe. Những người bị đưa đi ngơ ngác nhìn, đau khổ nhìn, uất ức nhìn nhà cửa, tài sản của mình đóng dấu niêm phong với dấu đỏ loè loẹt như những vết máu. Tôi ngồi theo xe cùng chú A Tỷ và Tiểu Thanh, đồ đạc chỉ được phép lấy mang theo là mấy cái nồi niêu, xoang chảo và mùng mền chiếu gối. Tài sản bao nhiêu năm giờ chỉ là một đống đồ chẳng giá trị gì ! Chú A Tỷ vẫn im lặng gục đầu. Tiểu Thanh vẫn đầy nước mắt, ngơ ngác không biết ngày mai sẽ ra sao? Nhiều người quay đầu nhìn lại, họ biết tất cả sẽ chẳng còn gì, tất cả đã bị tịch thu.
Xe chạy gần một ngày, qua những đoạn đường đầy bụi, xe dằn xốc liên tục, mặt mũi ai cũng bơ phờ đầy bụi đỏ. Đến chiều, khi mặt trời đỏ như máu đang dần xuống ở đầu ngọn cây thì đoàn xe dừng lại. Mọi người bị lùa xuống một khoảng rừng thưa, trước là một bãi đất đầy cỏ dại ngút ngàn, khô cằn, hoang vu trong hoàng hôn. Có lác đác mấy lều tạm bợ đã được dựng sẵn. Loa lại kêu từng hộ gia đình vào lều, nhìn cảnh tượng như cảnh nhập trại tù binh của người Do Thái thời phát-xít Đức. Buổi cơm tối được nấu tạm bợ trong chập choạng mờ tối với những ánh lửa hiu hắt. Nhưng chẳng ai nuốt nổi ! Cả ngày đi đường quá mệt, tâm trạng lại rối bời, lại nhìn cánh rừng mà mai mốt phải sống ở đây, ai cũng lắc đầu ngao ngán ! Nghe mọi người bảo đây là vùng Đắc Nông, Phước Long gì đó (?) Nghe như chốn xa vạn dặm nào ! Tôi thu xếp cho Tiểu Thanh và chú A Tỷ có một chỗ tạm ngụ, sáng hôm sau tôi lại bu mấy xe đò chạy than về lại thành phố.
Lúc này tôi đã nộp đơn xin đi làm mấy cơ quan, nhưng chẳng chỗ nào nhận. Họ bảo lý lịch của tôi có nhiều điểm bất minh, cần làm rõ. Đặc biệt là sao tôi lại trở về Việt Nam vào tháng 12 năm 1974. Họ cho công an điều tra xem tôi trở về để làm gì? Có nhận nhiệm vụ gì của tổ chức nào không v..v ? Cũng may, cuối cùng tôi cũng được Sở Giáo dục nhận, nhưng cũng do lý lịch, họ đẩy tôi về dạy học ở Củ Chi. Có lẽ lúc này nhà nước đang thiếu giáo viên quá ! Nhìn ngôi trường, tôi quá ngao ngán. Đó là một ngôi trường quê, chỉ có một dãy khoảng năm phòng làm lớp học, một dãy nhà lợp to^n khác gồm hai phòng làm phòng ban giám hiệu và kho chứa đồ. Ban đêm thầy cô giáo xếp bàn làm giường, giăng mùng nằm ngủ. Các tiện nghi sinh hoạt thiếu thốn trầm trọng. Tôi tự nhủ cố gắng cho qua rồi tính tiếp.
Tôi không có giờ dạy ngày thứ hai, nên hai tuần một lần thứ bảy tôi qua mấy chặng xe lên Đắc Nông thăm Tiểu Thanh và chú A Tỷ, sáng thứ hai hoặc tối chủ nhật lại bu mấy chặng xe về. Có mấy thứ nhu yếu phẩm cỏn con, có khi chỉ vài muỗng bột ngọt, miếng vải mùng, nhúm hạt tiêu, vài ba gói thuốc lá đen, tôi cũng để dành mang lên cho họ. Họ sống khó khăn quá ! Toàn la` dân thành phố mà bây giờ phải vào rừng chặt cây dựng nhà, học cách trồng cây, gieo mạ, cấy lúa trên miếng đất khô cằn. Lác đác đã có người trốn về. Nhưng về thành phố rồi làm gì, ở đâu? Họ biến thành những kẻ đầu đường xó chợ. Lương thiện thì đi ăn xin, bất lương thì đi ăn trộm, móc túi để sống. Tôi thấy Tiểu Thanh và chú A Tỷ ở đây không ổn rồi, tôi đang tính ... tim` cách để đưa họ về lại thành phố mà tính mãi chưa ra ! Tính chưa xong thì lần thứ ba, tôi lên lại Đắc Nông, tôi chứng kiến Tiểu Thanh bị rắn độc cắn cùng hai người khác khi đi rừng. Ba nạn nhân được dân chúng gánh về bệnh viện bằng cái võng và thân cây tre làm đòn khiêng.
Chẳng có phương tiện nào khác. Tôi vừa chạy theo vừa niệm khẩn cầu Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng người không đoái hoài. Và cả ba đã chết trên đường đi ! Nửa người của Tiểu Thanh tím đen vì nọc độc, mắt Tiểu Thanh không nhắm, mở trừng trừng như muốn nhìn thấu nỗi oan khiên. Chú A Tỷ một lần nữa ngã quỵ, chú bây giờ như bộ xương khô, đôi mắt lạc thần, khuôn mặt như kẻ điên dại. Tiểu Thanh được chôn trong nghĩa địa vừa mới hình thành, lác đác đã có gần chục nấm mồ mới mọc, cỏ chưa kịp xanh vì tuần nào cũng có người chết. Kẻ bị rắn cắn, người bị cây đè, người khác bị bom mìn còn sót nổ khi cuốc đất, người thì thấy bế tắc quá, tự tử chết, đủ cách để chết !

Tôi khuyên chú A Tỷ trốn về, nhưng chú bảo bây giờ còn mộ Tiểu Thanh ở đây, con mới mất, chú đi không đành, ở lại để chiều chiều, sáng sáng thắp cho nó cây nhang, đêm đêm chuyện trò với nó, kẻo nó buồn, nó tủi thân. Tôi chỉ biết khóc, tội nghiệp Tiểu Thanh quá ! Và tội cho chú A Tỷ nữa. Cũng tội nghiệp cho mọi người bị lùa lên đây. Họ làm gì nên tội. Đã lấy tài sản một đời gom góp của họ, đã cướp nhà của họ, có người chồng đã đi vào trại cải tạo không có ngày về, sao lại đày đoạ họ đến đây với rừng rú, với hoang địa, với đói nghèo và cận kề cái chết như thế này? Cùng một dòng máu đỏ da vàng mà sao người ta tàn nhẫn thế, ác nhân thế ? Mà thật ra có thù hằn gì nhau đâu mà phải trả thù. Họ có tội gì đâu mà bắt họ đền tội !?
Tôi vẫn tiếp tục đi dạy học ở trường quê đấy. Hàng ngày phải gào giọng rao giảng những điều giả dối, hàng ngày phải tuôn ra những lời ca tụng thời đại đẹp nhất trong lịch sử, ca ngợi những con người đang đày đoạ nhân dân mình trong đói nghèo và lạc hậu. Thỉnh thoảng đôi tuần, tôi lại bu xe về Đắc Nông thăm chú A Tỷ. Có nhiều đêm, hai chú cháu nằm nói chuyện suốt đêm trong nước mắt. Chú bảo "chú biết con và Tiểu Thanh thương nhau, nếu ngày xưa chắc hôn sự khó thành, nhưng thời buổi đảo điên này, chú định bỏ qua lệ ấy mà tác thành cho hai đứa, không ngờ mẹ nó chết, rồi đến nó cũng không sống được ! Chú quý con lắm, thôi thì số phận đã thế thì mình phải chịu phần số thế thôi !". Rồi chú lại khóc. Chú ôm chặt vai tôi mà khóc, nước mắt đẫm vai tôi, rồi chú uống rượu, uống nhiều lắm dù trước đây chú chưa bao giờ biết đến rượu bia.

Mấy tháng cuối năm học, luyện cho học trò thi tốt nghiệp, rồi bận gác thi, chấm thi, tôi không ghé thăm chú được.. Lúc công việc đã vãn, lên thăm thì nghe người ta bảo chú bị lên cơn điên, đưa vào bệnh viện huyện, rồi chú trốn về mất biệt, không biết đi đâu ?! Tôi về thành phố, tìm khắp ... không gặp chú ! Cuối cùng tôi nghĩ bụng chắc chú về khu nhà cũ. Đúng y như thế. Chú về căn nhà cũ, tối nằm ở vỉa hè trước nhà, ngày đi lượm ve chai, đói ... ai cho gì ăn đấy !

Căn nhà của chú cấp cho gia đình cán bộ VC ngoài Bắc vào. Cũng có vài lần họ đuổi chú đi, nhưng chú lại về, ngủ ở đấy, mặc họ la hét, chửi rủa, riết rồi họ chán, họ im. Lâu lâu có dịp về thành phố, tôi lại tìm đến chú, hai chú cháu ra quán, kêu vài món, vài ly bia hơi nhạt nhẽo, lần nào chú cũng khóc. Chú càng ngày càng gầy, áo quần rách rưới. Giờ chú không còn mặc áo thun ba lỗ với chiếc quần ngắn đến đầu gối nữa. Chú mặc bất cứ thứ gì kiếm được hoặc của mọi người mang đến cho. Dân ở khu đấy đã từng biết chú, cũng hay giúp chú miếng ăn khi đói, viên thuốc khi bệnh. Nhưng mà lúc đấy ai cũng khó khăn, ai cũng túng bấn, không có gạo trắng để ăn, lương thực toàn bo bo với bột khoai mì, với vài ba ký gạo hẩm. Nhiều khi nhiều người muốn giúp chú mà cũng chẳng có gì để giúp !
Mùa mưa năm 1977, không hiểu sao Sài Gòn cứ mưa mãi thế ! Nhiều lúc mu*a từ nửa khuya cho đến hết ngày ! Mưa như trút nước. Mưa như trời giận dữ loài người. Lại thêm bệnh ghẻ ngứa. Không biết sao mà người bị bệnh đó lắm thế ?! Mọi người cứ gãi sồn sột. Gãi đến tróc da, chảy máu. Con nít ngứa khóc suốt đêm, người lớn ngứa không ngủ được. Vào bệnh viện toàn cho thuốc "xuyên tâm liên". Bệnh gì cũng "xuyên tâm liên". "Xuyên tâm liên" CSVN là thuốc tiên, chữa bá bệnh ...!
Buổi chiều hôm đấy trời mưa, một trận mưa lịch sử. Đường sá Sài Gòn ngập lên đến bụng, cả thành phố như một biển nước. Lại thêm gió ào ạt, nghe đâu có bão rớt. Lo cho chú A Tỷ, đêm hôm sau tôi ghé chú vì chú chỉ về đó ban đêm. Đến nơi không thấy chú, hỏi thăm thì mọi người bảo chú chết rồi, chết đêm qua, trong cơn mưa bão. Xác chú dập dềnh suốt đêm trước cửa nhà. Sáng sớm, bà giúp việc mở cửa định tát nước ra thì thấy xác chú lừng lững trôi vào nhà. Bà giúp việc hoảng quá (!) la hét rầm trời bỏ chạy. Bà chủ nhà trên lầu bước xuống thấy xác chú vào đến giữa nhà, xoay mòng mòng theo con nước dội vào nhà khi có xe qua, bà sợ quá hét lên một tiếng rồi ngất xỉu ! Ông chủ nhà là một cán bộ VC lãnh đạo của thành phố cũng từ trên lầu chạy xuống, thấy xác chú quay tròn giữa phòng khách thì cũng cứng đơ người, sai bà giúp việc lấy cây đẩy ra, nhưng càng đẩy ra, xác lại giạt vào. Ông ta hoảng quá gọi công an. Một giờ sau công an có mặt, xác vẫn xoay tròn. Công an làm biên bản, gọi xe cứu thương đến nhận xác. Lúc đấy, nước bắt đầu rút, xác chú A Tỷ xoay đến chân câu` thang, nằm lại đó, đôi chân như muốn bước lên. Người ta chở xác chú đi đâu không rõ

Từ đấy, người ta đồn nhà ấy có ma. Đêm đêm có người đàn ông đi lên đi xuống athang. Có người còn kể ... thấy chú đứng ở balcon, mặc áo thun ba lỗ với chiếc quần ngắn đến đầu gối, nhìn xuống đường. Gia đình cán bộ hãi quá, xin đổi nhà khác. Những gia đình đến sau đấy cũng ở không yên, đêm thì nghe tiếng khóc, đêm thì nghe tiếng người đi, đêm thì thấy bóng người ngồi thu lu trên ghế. Người không ở được, nhà nước chuyển thành văn phòng của ủy ban phường, sau đó thành đồn công an phường. Mấy anh công an kể đêm nào cũng thấy ma !
Đến thời kỳ đổi mới, nhà nước bán cho một công ty nước ngoài đập bỏ xây cao ốc. Không biết chú còn vất vưởng ở đó không (?) hay đầu thai kiếp khác rồi. Và cũng từ đấy, ngôi nhà, cơ nghiệp cả đời của chú A Tỷ đã biến mất, chẳng còn dấu tích gì trên cõi đời này nữa.
Saigon, Tháng mười 2018
Đỗ Duy Ngọc (Facebook)