Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang

Đây là một bài viết hay của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, 
Tôi đồng ý với nhận định của của ông về cách nhìn một đế chế Trung Cộng
"Khi nhận định về Trung Cộng các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. 
*Một là Trung Cộng là một thế giới hay một đế quốc - hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Cộng- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia.
*Hai là Trung Cộng vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực. Văn hoa này cũng la nét đặc trưng của cộng sản Việt Nam.
Đây chính là văn hoá để che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, nhưng thực chất nền kinh tế của Trung Cộng đã hết thuốc chữa và lẽ đương nhiên nền kinh tế của cộng sản VN thì hoàn toàn lệ thuộc vào Tầu cộng.
*Đất nước Trung Cộng đang bị hủy diệt. Mối nguy lớn nhất là môi trường
Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.

*Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.
Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm.
*Hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung Cộng. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu. Nhưng tại VN số đảng viên vẫn còn rất đông bởi vì quyền lợi (một chủ thuyết tôi tạm sử dụng để mô tả tâm lý những đảng viện Việt cộng đó là Nắm sôi Bờm cười)miễn sao cơm no ấm cật là đủ rồi, đó cũng là thân phận của một thằng hèn.
 

Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang

image
 “…Tập Cận Bình thừa kế một Trung Cộng tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết, Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn…”
Khi nhận định về Trung Cộng các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Cộng là một thế giới hay một đế quốc - hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Cộng- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Cộng vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.

Cho đến nay thực trạng Trung Cộng đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Cộng.

Kinh tế Trung Cộng hết thuốc chữa

Hãy nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Cộng đã gây kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Cộng dĩ nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Cộng đã tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Cộng đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Cộng tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Cộng sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần.

image
Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới của Trung Cộng) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách này; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này nghĩa là lý luận về Trung Cộng như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về Trung Cộng thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Cộng có thể lâm vào khủng hoảng không? Rồi Trung Cộng sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Cộng sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Cộng sẽ ra sao?

Tất cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của Trung Cộng được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã hội Trung Cộng. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.

image
Kinh tế Trung Cộng dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua, ngoại thương Trung Cộng đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ?

Công ty tham vấn Lombard Street Research của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Cộng nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung Cộng năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v.

image
Một chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Cộng lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung Cộng vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.

Lòng tin vào tương lai của kinh tế Trung Cộng còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Cộng đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Cộng đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Cộng giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai Trung Cộng tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi?

image
Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Cộng không còn giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.

Nhưng kế hoạch nào? Từ năm 2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì Trung Cộng đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp.

Năm 2013 khi mới lên cầm quyền, Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế, chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Cộng không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.

Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung Cộng không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều Trung Cộng đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Cộng nguy ngập hơn. Từ năm 2010, Trung Cộng đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người công nhân Trung Cộng chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa Trung Cộng khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Cộng hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.

image
Chừng nào kinh tế Trung Cộng sẽ thực sự sụp đổ? Câu trả lời là: khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Cộng "có sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Cộng vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Cộng -ít nhất 30.000 tỷ USDnhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Cộng vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.

Đất nước Trung Cộng đang bị hủy diệt

Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn nhất của Trung Cộng. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.

image
Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Cộng) và Thanh Hoa (Trung Cộng) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Cộng, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Cộng đã hết nước.

Tháng 3/2013, một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung Cộng chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước.
Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trườngCần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.

image
Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nóivề một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Cộng sang Myanmar. Lý do khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của Myanmar.

image
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ.

Bầu trời Hoa Bắc

Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người Trung Cộng chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước Trung Cộng đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Cộng bằng mọi giá. Họ sợ chết.

Một chế độ tuyệt vọng

Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dõi tình hình Trung Cộng đều đồng ý rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông.

image
Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.

Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.

Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng, Trung Cộng là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với một người Trung Cộng chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Cộng còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù hận chưa được hóa giải của quá khứ.

image
Trong suốt dòng lịch sử dài của nó, sự thống nhất của Trung Cộng đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát.Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Cộng hầu như không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống trị ngoại bang.

Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Cộng cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn ápNăm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Cộng và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Cộng tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.

Nhưng việc phải làm đó là gì? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Cộng. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Cộng thêm sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó.

Nhưng vấn đề là Trung Cộng không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng của Trung Cộng quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang Web www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11/2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung Cộng. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.

image
Lịch sử Trung Cộng nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh ; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy kiệt; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới.

Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập", ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.

Phải lo ngại cái gì? Chế độ cộng sản Trung Cộng còn trụ được bao lâu nữa?

Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng Trung Cộng không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của Trung Cộng nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.

image
Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ cộng sản Trung Cộng tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.

Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là Đảng Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái.

Hợp đồng thứ hai là quần chúng Trung Cộng chịu đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.

Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của Trung Cộng không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo âu trước việc Trung Cộng xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn Trung Cộng như một quốc gia thay vì một đế quốc.

Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong. Trung Cộng cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi, các hoàng đế Trung Cộng không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. Việt Nam và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.

Cũng không cần lo ngại cho người Trung Cộng. Trung Cộng có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn Trung Cộng hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung Cộng là những thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.

Thiên triều sụp đổ

image
Câu hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Cộng sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa.

Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam, chế độ cộng sản Trung Cộng coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung Cộng.
Trong cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, theo đó Trung Cộng thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất cần yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản.

Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11/2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế Việt Nam "rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.

Một điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc Trung Cộng, hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Cộng. Giữa thập niên 1980 khi Liên Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch để xin được phục tùng Trung Cộng. Trái với một nhận định hời hợt không phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc Trung Cộng. Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh lên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của Đảng Cộng Sản ViệtNam là một văn hóa chư hầu.

Tất cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Cộng cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.

Lịch sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Namđều phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi, nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Cộng để duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào cả.

image
Nhưng bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Cộng được nữa. Chiến lược của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.
Mọi ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.




Nguyễn Gia Kiểng

Thế giới lại ‘hai phe bốn mâu thuẫn?

Gửi đến quý vị bài viết của Nguyễn Giang, tác giả có những nhận định và phân tích về tình hình thế giới hiện nay.
(Nhưng gần đây lại có các ý kiến nói rằng chính trường quốc tế không còn đa cực mà bắt đầu tụ lại thành lưỡng cực (bipolar world), với một bên là Hoa Kỳ, bên kia là Trung Cộng.)

Thế giới lại ‘hai phe bốn mâu thuẫn?

http://baomai.blogspot.com/
Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Cộng sẽ là vị khách quốc tế cao cấp nhất dự lễ diễu binh cuối tuần này ở Moscow.

image
Cùng ông Tập là nhiều lãnh đạo Trung Á, Việt Nam và một số nước khác trong khi đa số lãnh đạo các nước lớn ở châu Âu không dự buổi lễ này để tỏ thái độ với Nga.
Sự kiện này khiến người ta không khỏi nghĩ quả là thế giới đang chia làm hai.

image
Nga và châu Âu có cách nhìn trái ngược nhau về Ukraine
Cách nhìn của châu Âu và Trung Cộng về Nga và Ukraine là hoàn toàn khác nhau.
Nhìn từ nhiều thủ đô châu Âu, các hoạt động của Nga nhằm phục hồi khu vực Liên Xô cũ là rất đáng lo ngại.

Trong khi đó, Trung Cộng không chấp nhận tất cả những gì Nga đã làm như sáp nhập Crimea và hỗ trợ các nhóm vũ trang tại Đông Ukraine nhưng cũng không muốn Mỹ và Nato mở rộng sang phía Đông.

Hai cực hay hai phe?

image
Sau Chiến tranh Lạnh, nhiều nhà quan sát tin rằng thế giới ngày càng trở nên đa cực.
Nhưng gần đây lại có các ý kiến nói rằng chính trường quốc tế không còn đa cực mà bắt đầu tụ lại thành lưỡng cực (bipolar world), với một bên là Hoa Kỳ, bên kia là Trung Cộng.

Chẳng hạn hồi tháng 11/2012, Judy Dempsey viết trên trang carnegieeurope.eu, so sánh bầu cử tại Mỹ và Trung Cộng với các khác biệt tới mức tương phản, như hai thế giới đối chọi nhau.
Nhưng cũng có ý kiến, như của cựu ứng viên tổng thống Mick Romney (2012) hoặc nghị sĩ Đảng Dân chủ, Adam Schiff gần đây coi Nga là đối thủ chính của Hoa Kỳ.

Như thế, Phương Tây vẫn chưa đồng ý được trong thế lưỡng cực mới thì đối thủ của Hoa Kỳ là ai.
Nhìn từ châu Á, người ta dễ đi đến kết luận rằng đối thủ của Hoa Kỳ hẳn là Trung Cộng, nhưng nhìn từ châu Âu thì đó lại là Nga.

image
Hai lãnh đạo Nga và Trung Cộng đang xích lại gần nhau
Cùng lúc, Nga và Trung Cộng xích lại gần nhau vì sự chia sẻ quan điểm về quyền lực nhà nước mạnh, quyền lợi của quốc gia mạnh, xã hội cần có định hướng.

Về phía bên kia thì vẫn là Hoa Kỳ với các nước đồng minh chủ chốt (Nhật, Úc) trong khi châu Âu về cơ bản đứng về phía Hoa Kỳ nhưng nội bộ vẫn có các chính phủ thân Nga (Cyprus, Hy Lạp, Hungary).
Cuộc tranh chấp hai phe này đang diễn ra trên một loạt mặt trận.

Trong thế kỷ 20, nhiều quốc gia gồm cả Việt Nam đã say sưa với thuyết ‘hai phe bốn mâu thuẫn’.
Theo đó, thế giới chia làm hai phe: phe theo chủ nghĩa xã hội và phe đế quốc, và động lực của chính trị quốc tế là bốn mâu thuẫn.

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc;

Mâu thuẫn giữa phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa đế quốc;

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và giai cấp công nhân tại các nước đế quốc

Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau.

Ngày nay, cách nói này không còn nữa nhưng không phải trên thế giới không còn các tuyến va chạm quyền lợi, cạnh tranh.

Đầu tiên là mâu thuẫn về nguồn năng lượng.
Một bên là Nga có thu nhập chính bằng năng lượng hóa thạch và dùng ngành dầu khí làm một vũ khí kinh tế, ngoại giao trong quan hệ với EU, Trung Cộng, Iran, Venezuela, Việt Nam.
Bên kia là Hoa Kỳ và châu Âu muốn khai thác năng lượng mới (điện mặt trời, điện gió, dầu khí đá phiến), vừa nâng cao công nghệ, vừa đỡ bị lệ thuộc vào các nước xuất khẩu dầu khí.
Dầu khí, từ các mỏ đã khai thác, các nguồn tiềm năng, các đường ống... tiếp tục là tâm điểm của nhiều tranh chấp quốc tế.

Mâu thuẫn thứ nhì là cuộc đấu tại các diễn đàn kinh tế, các khu vực tự do mậu dịch.
EU, cộng với Iceland, Liechtenstein và Na Uy đã thuộc EEA (European Economic Area), còn Nga lập ra Liên minh Kinh tế Âu – Á (EEU) với Belarus và Kazakhstan.
Tại Đông Nam Á, Việt Nam cũng được mời tham gia Liên minh này, gợi lại một thời Hà Nội từng tham gia khối Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) dùng đồng rúp của Liên Xô.

Hoa Kỳ chủ xướng lập TPP thì Trung Cộng cũng đang đáp lại bằng Ngân hàng Phát triển Hạ tầng châu Á (AIIB).
Tự do kinh tế đã trở thành tín điều nên mâu thuẫn xảy ra ở các chi tiết cụ thể như bỏ thuế quan thì có lợi cho ai, nhận đầu tư lớn có làm hại cho quyền của người lao động, có làm cạn kiệt nguồn nước, quỹ đất?

Tự do hóa thương mại nâng cao mức sống cho nhiều người cũng làm cho một thiểu số giàu lên gấp bội, gây ra xung đột xã hội.

Mâu thuẫn nữa là về mô hình truyền thông toàn cầu.

http://baomai.blogspot.com/
image
image
Nga đang mô tả cuộc chiến chống lại Kiev là sự lặp lại của Chiến tranh Vệ quốc năm 1945
Các kênh RT và CCTV đều hoạt động thoải mái ở Phương Tây nhưng Moscowvà Bắc Kinh lại hạn chế tối đa quyền đưa tin của các đài báo nước ngoài.

Các nước này vừa chặn mạng, không cấp visa cho nhà báo hoặc hạn chế các chuyến làm phóng sự, đồng thời hạn chế mạng xã hội hoặc dùng dư luận viên tác động đến các trang đông người dùng.

Mâu thuẫn thứ tư giữa hai phe là cách diễn giải lịch sử không giống nhau.
Cụ thể nhất, Moscow đang dùng buổi lễ ngày 9/05 này cho mục tiêu tuyên truyền rằng cuộc chiến ở phía Đông Ukraine là sự lặp lại của chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại.

image
Trình diễn vũ khí tại Hồng trường cũng nhằm đề cao sức mạnh của nước Nga mới, và tạo ‘tính chính danh’ cho các binh đoàn ‘tình nguyện’ sang Đông Ukraine để ‘bảo vệ chính Ukraine chống lại tân phát-xít’.

image
Cờ và băng tay hai màu đen và cam của du kích chống Hitler vào Thế Chiến 2 đang được phái thân Nga ở Đông Ukraine và giới ngoại giao Liên bang Nga sử dụng để nhấn mạnh nội dung này.

Điều này hoàn toàn khác với những gì Đức, Ba Lan và Ukraine nhìn nhận về lịch sử Thế Chiến 2.
Cũng vì thế mà bà Angela Merkel không đến dự ngày lễ 09/05 nhưng chỉ sangMoscow hôm sau để đặt vòng hoa trước mộ liệt sĩ vô danh.

Ở châu Á, lịch sử Thế Chiến 2 và các tội ác của quân đội Nhật Hoàng cũng đang được Trung Cộng nhấn mạnh nhằm khơi dậy lòng yêu nước phục vụ mục tiêu tự cường dân tộc chủ nghĩa thời nay.

image
Trung Cộng cũng dùng lịch sử và khảo cổ học hải dương, kể cả việc lập think-tank ngay tại Mỹ, để củng cố cho lập luận trong tranh chấp lãnh hải, biển đảo với các nước láng giềng.
Nói về hai phe ngày nay thì thực ra, việc định hình lại các liên minh chặt chẽ hoặc lỏng lẻo, tan hợp, hợp tan tùy thuộc vào lợi ích quốc gia hay nhận định của các tập đoàn quyền lực từng nước, cũng là rất bình thường.

image
Pol Pot tấn công Việt Nam: mâu thuẫn bùng nổ giữa các nước CS châu Á
Ở Trung Cộng ngày xưa đã có thời Xuân thu Chiến quốc, các nước châu Âu sau này đến tận Hội nghị Vienna (1814-15) cũng vẫn là thế giằng co, chia sẻ quyền lực qua các liên minh khác nhau.
Điều quan trọng là giới chính khách có đủ tầm nhìn để suy đoán ra các dịch chuyển của những liên minh đó không.

Nhìn từ Việt Nam, các nhà lãnh đạo cộng sản mấy thế hệ trước đã có thiếu sót nghiêm trọng về tầm nhìn.
Họ quá tin tưởng vào tình thân ái cộng sản nên không dự đoán được rằng mâu thuẫn trong phe đế quốc không gây ra chiến tranh.

image
Hình Stalin và Lenin trong diễn hành ở Nga hồi 2014
Trái lại, chính mâu thuẫn giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa lại bùng nổ khốc liệt hơn cả vào cuối Chiến tranh Lạnh: Đông Âu bỏ Nga, nội chiến Nam Tư, Trung Cộng đánh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia thời Pol Pot đánh nhau...

Ngày nay, dù thế giới chia làm mấy phe và có bao nhiêu mâu thuẫn, việc chọn thế đứng sao cho đúng và khả năng dự báo để tránh đổ vỡ cũng không kém phần quan trọng.

Chính sách hay được gọi là 'đi dây giữa Mỹ và Trung Cộng' của Việt Nam cũng không có gì là quá sáng tạo vì Indonesia, Hàn Quốc, Mông Cổ, Thái Lan cũng đều đang làm chuyện đó từ lâu nay.

http://baomai.blogspot.com/
Cùng lúc, nhiều nước Trung Á cũng vẫn 'đi dây' giữa Nga và Mỹ, và gần đây phải xử lý thêm vào yếu tố Trung Cộng.

Thiết nghĩ, quyền lợi quốc gia như an ninh và thương mại luôn cần được đặt lên trên ảo tưởng ý thức hệ hay tình cảm hoài cổ nào đó để Việt Nam không đứng hẳn về một phe và bị lôi kéo lần nữa vào xung khắc lớn trên thế giới.

Nguyễn Giang

Về lại Camp Pendleton

Nhớ lại 40 năm về trước những người Việt tị nạn đầu tiên đến Hoa Kỳ, họ là những người may mắn đã rời khỏi Việt Nam khi quân cộng sản xâm chiếm miền nam VN. Vào thời điểm 30 tháng 4 năm 1975 có khoảng 130 ngàn người Việt đã đến Hoa Kỳ và được chính phủ Mỹ bảo trợ.
Còn tất cả đồng bào miền nam VN còn kẹt lại trong nước phải chung sống với giặc cộng thì thê thảm hơn, mọi người phải sống dở chết dở dưới sự cai trị hà khắc của chính quyền cộng sản (một lũ người rừng về thành phố) một chế độ cộng sản tầm bậy nhất trong lịch sử Việt Nam.

Con đường đến Camp Pendleton. Lái xe trên Xa lộ 5 từ Quận Cam xuống San Diego, trên đường có bảng tên và bảng chỉ lối vào Camp Pendleton, là căn cứ thuỷ quân lục chiến Mỹ có chiều dài hơn 20 dặm.
Đối với người Mỹ gốc Việt, đặc biệt với nhiều người ở Quận Cam, Camp Pendleton là một cái tên gợi nhớ vì trong căn cứ này vào cuối tháng 4/1975 những lều trại đầu tiên được gấp rút dựng lên để đón người tị nạn vào Hoa Kỳ. Đây đã là nơi tạm trú của 50 nghìn người, hầu hết đến từ Nam Việt Nam

Về lại Camp Pendleton

image
Tác giả mặc áo màu xanh biển, ngồi bên phải, chụp hình kỷ niệm với bạn trongCamp Pendleton năm 1975
Lái xe trên Xa lộ 5 từ Quận Cam xuống San Diego, trên đường có bảng tên và bảng chỉ lối vào Camp Pendleton, là căn cứ thuỷ quân lục chiến Mỹ có chiều dài hơn 20 dặm.
Đối với người Mỹ gốc Việt, đặc biệt với nhiều người ở Quận Cam, Camp Pendleton là một cái tên gợi nhớ vì trong căn cứ này vào cuối tháng 4/1975 những lều trại đầu tiên được gấp rút dựng lên để đón người tị nạn vào Hoa Kỳ. Đây đã là nơi tạm trú của 50 nghìn người, hầu hết đến từ Nam Việt Nam và một số ít từ Campuchia. Những người Việt được đưa đến đây là trong số 130 nghìn người đã rời khỏi quê hương khi quân cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975 đưa đến việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.

image
Người Việt di tản khỏi Việt Nam bằng máy bay hay bằng thuyền bè được đưa đến Philippines, đảo Guam hay đảo Wake, cùng lúc chính phủ Mỹ mở ra bốn trại để đón người tị nạn vào nội địa là Camp Pendleton ở California, Fort Chaffee ở Arkansas, Eaglin Air Force Base ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania.

image
image
Nơi đây 40 năm trước là những lều trại đón người tị nạn
Tôi rời Việt Nam chiều 29/4/1975. Hành trình đến Mỹ đã qua các nơi: một tuần neo ngoài biển Singapore, 6 tuần trên Grande Islands trong căn cứ Subic Bay của hải quân Mỹ ở Philippines, một tuần ở Guam và hơn một tháng ở CampPendleton.
Đầu tháng 8/1975 tôi rời Camp Pendleton, theo gia đình ông anh họ là thẩm phán Trần An Bài ra định cư tại thành phố Berkeley ở miền Bắc California.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi tình nguyện gia nhập Peace Corps và được gửi sang Togo, châu Phi dạy học. Năm 1986 tôi về Đông nam Á làm việc cho Cao ủy Tị nạn nên đã trở lại thăm Singapore và Subic Bay vào cuối thập niên 1980.

Bốn mươi năm qua chưa về Guam thăm Asan hay về lại Camp Pendleton. Đã nhiều lần lái xe trên Xa lộ 5, nhìn thấy căn cứ của thủy quân lục chiến rộng lớn bên triền đồi, nhưng chưa có dịp ghé thăm, vì e ngại ra vào cơ sở quân sự có khó khăn, cần giấy phép.

Cuối tháng Tư vừa qua tôi đã về lại nơi mình đầu tiên đặt chân vào đất Mỹ cách đây bốn mươi năm. Chỉ hai vợ chồng tôi tìm đến chỗ đã từng là lều trại vào năm 1975.

Đúng ra sẽ có hàng nghìn người cũng đến trong một sinh hoạt tưởng niệm 30/4, nhưng ban tổ chức phía người Việt đã quyết định hủy chương trình tại đây vì không được phép hát quốc ca và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa cũ.

image
Khu ba-rắc nay vẫn còn
Thất vọng khi hay tin chương trình họp mặt được dời về địa điểm mới trong khu vực Little Saigon, nhưng tôi quyết định vẫn về thăm lại trại nên đã lên mạng tìm điện thoại, email để hỏi việc xin giấy vào căn cứ quân sự ra sao.
Các cơ quan điều hành trại tôi hỏi, khi nhắc đến sự kiện người tị nạn Việt đã đến đây 40 năm trước thì có người biết, người không. Khi hỏi về khu lều trại tị nạn cũ, không ai biết ở đâu trong căn cứ. Tất cả đều nói để được vào căn cứ chỉ cần bằng lái xe hay hộ chiếu. Vào cổng chính sẽ có thông tin hướng dẫn.

Sáng sớm thứ Bảy 25/4, từ vùng Vịnh San Francisco chúng tôi bay xuống nam California rồi mướn xe lái đi Camp Pendleton.

Trên đường, ghé phố Bolsa ăn sáng. Little Saigon ngập bóng cờ vàng, cờ hoa. Bốn mươi năm trước nơi đây còn là những cánh đồng cây trái.
Vào quán phở, gặp một bác mặc áo thun vàng trước ngực có in hình trống đồng và chim lạc bên hàng chữ đỏ “Commemorating 40 Years of Vietnamese Americans: Journey to Freedom & Beyond - Tưởng niệm 40 Năm Hành trình đến Tự do và Vươn tới” là chủ đề của buổi lễ dự định được tổ chức tại Camp Pendleton.

image
Tác giả đứng bên tượng đài Hand of Hope, Bàn tay Hy vọng, tác phẩm của nhà điêu khắc Nguyễn Lưu Đạt
Muốn mua một áo làm kỷ niệm, mấy bác chỉ cho nơi bán gần tiệm phở. Tôi cũng hỏi thăm từ đây đến Camp Pendleton bao xa. Một bác cho biết quãng đường là 21 dặm và cũng nói chương trình đã bị hủy bỏ như tôi biết.

Hành trình tìm về trại tị nạn xưa của tôi tưởng dễ, nhưng không.
Từ Little Saigon, lái xe trên Xa lộ 5 gần một giờ đồng hồ thì đến thành phố Oceanside, theo bảng chỉ đường dẫn vào cổng chính Camp Pendleton. Anh lính gác hỏi tôi đi đâu. Tôi nói muốn đến nơi ngày xưa là trại tị nạn cho người Việt. Anh nói chương trình đã hủy bỏ. Tôi trả lời có biết, nhưng vẫn muốn ghé lại vì đã sống ở đó vào năm 1975. Anh yêu cầu cho xem bằng lái xe. Tôi đưa cho anh và hỏi đường. Anh nói không biết, cứ vào trong sẽ có thông tin hướng dẫn.

Không ngờ việc vào một căn cứ quân sự lại dễ dàng đến thế. Vào trong thấy những cửa hàng, siêu thị và một bệnh viện cao tầng. Chắc chắn đây không phải là khu vực trại tị nạn cũ vì quá gần với xa lộ và thành phố.
Vào sâu hơn là những cơ sở huấn luyện quân sự. Đường dẫn lên núi, hai bên là nhà kho, thỉnh thoảng có khu gia binh.
Không thấy bảng hướng dẫn chỉ đường đến trại tị nạn cũ hay tượng đài kỷ niệm mà vài hôm trước tôi thấy trên báo Việt ngữ có đăng hình, đứng cạnh tượng là những người cầm cờ Hoa Kỳ và cờ Việt Nam Cộng hòa. Lúc tôi rời trại, tượng sắp hoàn thành, còn mầu xi-măng. Trong ảnh mới nhất tượng có mầu trắng.
Ghé vào tiệm McDonald trong căn cứ. Hỏi một người lính già, hỏi một anh lính trẻ cũng không ai biết gì về lều trại 40 năm trước hay về tượng đài.

image
Thẻ ăn của người tị nạn
Anh lính trẻ cho chút hy vọng khi anh nói nếu tiếp tục đi vào sâu hơn, chừng mươi phút lái xe sẽ thấy một bảo tàng. Ở đó sẽ có thông tin tôi muốn tìm.
Đến nơi, Mechanized Museum đóng cửa. Chung quanh có súng đạn, xe tăng được trưng bày.
Tôi trở ra. Vào PX trong khu gia binh tìm mua bản đồ. Chị bán hàng nói phải ra gần cổng chính, vào cửa hàng lớn MCX mới có bản đồ căn cứ. Tôi hỏi có biết nơi đặt tượng đài kỷ niệm người tị nạn, chị không biết nhưng rồi giới thiệu tôi cho một người lớn tuổi. Ông chỉ đường đến bệnh viện hải quân cũ, nay không còn sử dụng. Tôi mừng khi nghe được hai chữ “Naval Hospital” vì còn ghi trong kí ức. Đây là nơi trong thời gian ở trại tôi đã có một lần ghé.
Theo lời chỉ dẫn, chạy về hướng Lake O’Neil thì thấy bệnh viện. Nay bỏ hoang. Đúng là nơi tôi đã có dịp ghé qua cách đây 40 năm.
Nhớ mãi nơi này vì từ khi rời Việt Nam tôi chỉ ở lều trại, ngủ trên ghế bố mà chung quanh toàn cây xanh như ở Subic Bay, đồng cỏ khô như ở Camp Pendleton hay trơ trọi giữa nắng gió biển như ở Guam, vì thế được vào một nhà kiếng cao tầng như bệnh viện này là một sự kiện không phai mờ trong kí ức.
Thời gian sống trong Camp Pendleton tôi chỉ có hai dịp ra khỏi khu lều trại bằng xe buýt nhà binh. Một lần đi PX với ông anh họ. Đến đó, anh mua cho các em những cuốn sổ tay để đi học Anh văn ghi chép và một ra-đi-ô cát-sét bốn băng để sáng nghe đài BBC, VOA và để sang lại những băng nhạc Việt đang được chuyền tay nhau vì sợ khi rời trại sẽ không còn tìm thấy.

image
image
Tờ giấy ghi nơi cư ngụ là lều trại của một số bạn quen
Một lần đi xa khác là đến bệnh viện này. Tôi mừng khi nhận ra nơi mình đã từng ghé qua. Ngày đó, vừa bước vào cửa bệnh viện là cảm nhận ngay được một mùi thơm đặc biệt.
Sau khi chụp ảnh kỷ niệm, tôi lái xe vòng quanh khu vực nhưng không tìm ra tượng đài hay dấu tích trại tị nạn cũ.
Trở ra cổng chính, vào một cửa hàng MCX lớn như Costco tìm mua bản đồ. Cô bán hàng nói không có bản đồ in rồi dẫn tôi đến quầy dịch vụ khách hàng. Ở đó tôi nhận được bản copi vẽ sơ đồ trại. Hỏi về tượng đài, lấy bàn tay để diễn tả, cô tiếp viên nói nếu không biết ở khu vực số mấy sẽ khó tìm ra vì căn cứ rất rộng. Cô cho một số điện thoại, đề nghị tôi gọi đến đó sẽ có câu trả lời. Tôi gọi, nhưng không ai nhắc máy.
Sau hai giờ loanh quanh trong trại mà không có hy vọng, nhà tôi đã muốn bỏ cuộc. Tôi vận động tinh thần, kể rằng khi tôi đi Cuba, tiếng Tây Ban Nha không rành thế mà còn tìm ra được quán ăn Việt duy nhất ở Thủ đô Havana và nơi đặt tượng đài Hồ Chí Minh, trong khi ở đây là đất nước mình, ngôn ngữ sành sõi mà lại không tìm ra nơi muốn đến thì thật vô lý.
Dùng iPhone tìm cụm từ “Camp Pendleton and Vietnamese refugees 1975” thì ra hình tượng đài trong một bài báo tiếng Anh. Lần mò rồi tìm ra tên trại Talega trong Area 64. Xem sơ đồ có ghi khu vực này.
Ra khỏi cổng chính Camp Pendleton, chúng tôi đi ngược Xa lộ 5 về hướng bắc. Nửa giờ sau vào đến cổng San Onofre. Sau khi trình bằng lái xe, hỏi đường lên khu Talega, anh lính nói cứ chạy về phía phải sẽ thấy.

image
Lời bài hát “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy được tác giả chép lại trong ngày 3/7/1975 khi sống trong trại
Trời trở nên âm u và bắt đầu mưa. Sau đoạn đường ngắn có nhà thì toàn đồi cỏ khô. Coi sơ đồ thấy vài con đường nhưng phải chạy khá xa mới có một ngã rẽ trái lên núi. Tôi quay ngược lại nơi gần cổng vào để dò hỏi rõ trước khi tiếp tục leo núi.
Đến khu có cửa hàng, hỏi mấy bạn trẻ nhưng cũng không ai biết. May thấy hai anh lính MP, tôi hỏi về lều trại và lại đưa bàn tay ra làm dấu tượng đài. Một anh biết rõ nơi tôi đang muốn đến, chấm lên sơ đồ và chỉ đường rành rẽ.
Đường leo núi không một bóng xe. Hai mươi phút sau tượng đài mầu trắng hiện ra trước mắt. Lúc đó gần 3 giờ chiều.
Trời mưa to, âm u nhưng lòng tôi vui vì đã về lại được nơi mình đã từng sống tạm 40 năm trước. Chỗ này là nơi bắt đầu con đường dẫn vào lều trại, giờ hai bên chỉ cỏ khô. Ngày trước quanh đây có đặt vài văn phòng tiền chế là nơi người tị nạn mới đến khai hồ sơ, làm thủ tục nhập trại. Bây giờ có một căn nhà kiểu trại lính ở bên phải.
Từ ngoài là trại 8. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã sống trong trại này. Vào trong là lều ăn, lều tắm. Trại 5, nơi tôi ở nằm bên trái. Bên phải là trại 4, 6. Sâu hơn là khu ba-rắc trại 1, 2 và 3.
Những ba-rắc còn đó. Vẫn những con số của từng căn như cách đây 40 năm đã là địa chỉ của người tị nạn. Gần đó là mảnh đất sinh hoạt cho trẻ em vào ban ngày, tối là nơi chiếu phim. Hàng ghế gỗ vẫn còn nhưng đã mục nát nhiều. Sân đá bóng gần đó tôi không nhận ra vì đã phủ cỏ khô.
Tôi ở Trại 5, Khu 9, Lều 12. Nằm chỗ nào trên đoạn đường này tôi không thể định vị trí chính xác được vì giờ toàn cỏ khô. Chỉ phỏng đoán rồi dừng xe chụp hình.
Kí ức 40 năm trước hiện về rõ như một khúc phim. Tôi nhớ những buổi học tiếng Anh trong lều với các thày Đỗ Đình Tuân, Tạ Quang Khanh, Trần Văn Chương, với cô Kelly. Nhớ buổi họp mặt sinh viên luật với giáo sư Nguyễn Văn Canh. Nhớ lễ Chúa Nhật với cha Nguyễn An Ninh.

image
Phố Bolsa của Little Saigon tưởng niệm 40 năm ngày 30/4
Nhớ căn lều ở chung với các anh chị thỉnh thoảng buổi chiều yên tĩnh nghe có tiếng rắn rung chuông mà sợ. Nhớ các bạn mới quen trong trại: Nguyễn Thị Thủy, Trần Năm Châu, Nguyễn Huy Dư là sinh viên Đại học Sài Gòn. Nhớ các anh Nguyễn Văn Bút, Nguyễn Văn Chinh là lính hải quân. Nhớ cô gái tên Lê Thị Phương Trang dễ thương ở gần lều.
Nhớ những bài ca quen thuộc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương vang vang trong lều mà những khi nhớ nhà tôi đã ngồi nghe và ghi lại. Nhớ những buổi tối ra bãi cỏ xem phim hoạt hình “Popeye The Sailor”. Nhớ những chiếc áo rộng thùng thình nhận từ hội từ thiện.
Nhớ những bữa cơm chiều có thịt gà với hàng người dài như rồng rắn. Nhớ cảnh nhà ăn vắng hoe vì món cá không hợp khẩu vị. Nhớ món chopsuey bữa trưa, cháo thịt bữa sáng. Nhớ táo, cam thơm ngon.
Con đường từ tượng đài vào đến khu ba-rắc tôi cảm thấy ngắn hơn nhiều so với 40 năm trước. Có lẽ giờ tôi lái xe, ngày xưa đi bộ.
Nếu chương trình tưởng niệm không bị hủy bỏ, lúc này đã có hàng nghìn người Việt ở đây.
Hy vọng 5 hay 10 năm tới người Việt sẽ có cơ hội cùng nhau về đây để nhớ lại những ngày buồn đau khi nghĩ về quê hương cũ và những ngày đầy lo lắng nghĩ đến tương lai nơi đất mới. Về đây để cùng nhau nhắc nhở cho thế hệ mai sau biết là từ vùng đồi cỏ khô này cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã được thành hình. Rồi phát triển và vươn lên.


Bùi Văn Phú

image