Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 1 tháng 3, 2021

Bê thắng cuộc tồi bại . Bên thua cuộc Vĩ đại


              Bên thắng cuộc tồi bại…

               Bên thua cuộc vĩ đại

Lời tựa bài viết này tôi muốn ám chỉ đến chính quyền cộng sản VN hiện tại.”

    Chúng ta hãy ôn lại lịch sử về cuộc chiến tranh Nam Bắc của nước Mỹ. Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các Tiểu Bang (War Between the States). Sau khi Abraham Lincoln đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1860, đã có 11 tiểu bang theo chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ, tuyên bố ly khai khỏi Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ và lập ra Liên Minh Miền Nam (Confederate States of America). Riêng 25 tiểu bang còn lại ủng hộ chính phủ Liên Bang Miền Bắc (Union).

Cuộc phân tranh Nam-Bắc, xảy ra tại các tiểu bang phía Nam, cuộc chiến kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam, đầu hàng năm 1865 và chế độ nô lệ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Cuộc nội chiến này là sự bất đồng trong quan niệm (Miền Bắc muốn xoá bỏ chế độ nô lệ. Miền Nam muốn giữ lại chế độ nô lệ) mặc dù cả hai bên Bắc và Nam, có chung một dân tộc, nhưng họ có những bất đồng về chính kiến về đường lối chính trị riêng biệt, từ đó dẫn đến cuộc nội chiến Nam Bắc.

Cho đến ngày nay đây vẫn là cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, dẫn đến cái chết của khoảng 750.000 binh sĩ, và một số lượng thương vong dân sự không thể xác định. Sử gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40. Cuộc chiến này thật sự khủng khiếp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ về con số tử vong, nó còn nhiều hơn con số tử vong mà Hoa Kỳ đã tham chiến tại Việt Nam.

Chúng ta không bàn đến nguyên nhân của cuộc nội chiến Hoa Kỳ, mà chúng ta muốn nói đến ý nghĩa thật sự của những người Quân Tử, những người lính Anh Hùng của cả hai bên chiến tuyến, họ sẽ đối sử với nhau như thế nào khi chiến tranh kết thúc.

Bến Thắng Cuộc sẽ đối xử với Bên Thua cuộc như thế nào? Người chiến thắng có hận thù, giết chết hay đầy đoạ người lính bên thua cuộc. Lịch sử đã chứng minh, bên chiến thắng là miền Bắc đại diện là Tướng Ulysses Grant đã đối xử một cách rất anh hùng đối với bên thua cuộc, là miền Nam mà đại diện là Tướng Robert E. Lee.

Những sự kiện này khiến chúng ta so sánh về cuộc chiến tranh Việt Nam, sau năm 1975 miền Bắc Việt Nam đã chiến thắng, miền Nam VN đã thua trong cuộc chiến này, nhưng tất cả Quân Dân Cán Chính của người miền Nam đã bị đối xử như thế nào? Mặc dù cả hai bên đều có cùng chung một dân tộc, nói chung một ngôn ngữ và cùng chung một nguồn gốc.

Bên Thắng Cuộc (Cộng Sản) đã xem miền Nam (VNCH) như một chiến lợi phẩm, họ sẵn sàng tàn xát, cướp bóc, đày đoạ bên thua cuộc, bắt bớ tất cả những chiến binh bên thua cuộc, giam cầm trong các trại tập trung, họ đã đày đoạ cả một dân tộc để hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi tìm tự do, để lại hàng trăm ngàn cái chết đầy thương tâm trên đường vượt biên và trong các trại tù của cộng sản, tất cả những điều này đã và đang sẩy ra trong lịch sử Việt Nam. Cho đến tận ngày hôm nay ‘Tháng 4 năm 2021”, có nghĩa là sau 46 năm sự hận thù này vẫn còn tiếp nối, bằng chứng hiển nhiên mọi người có thể nhìn thấy tại nghĩa trang Biên Hoà nơi chôn cất những tử sĩ của người lính miền Nam.

Chính quyền cộng sản (VN) luôn luôn hô hào (Hoà hợp, hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù) nhưng thực chất thì khác hẳn, chính những người cộng sản họ không bao giờ muốn xoá bỏ, họ vẫn còn kiêu binh. Một ví dụ điển hình nhất đó là nghĩa trang Biên Hoà nơi chôn cất những người lính QLVNCH, cộng sản vẫn đào mồ bới mả, vẫn ngăn cấm những thân nhân đến thăm viếng (hương khói), chính quyền cộng sản muốn san bằng nghĩa trang này. Chính tại nơi nghĩa trang Biên Hoà những kẻ kiêu binh (Cộng sản Bắc Việt) không thể vượt qua lòng hận thù ngay cả đối với người nằm xuống, thì nói gì đến những người con sống.

Những ai đã từng một lần ghé thăm nghĩa trang Biên Hoà, cũng phải đau lòng thương khóc cho người chiến sĩ VNCH đang yên nghỉ trong vùng đất này, cộng sản đã biến nơi này thành hoang phế, ngang nhiên chà đap lên tình người và đạo lý, chúng ngăn cấm cả những người đến thắp nhang trên bia mộ, chúng muốn đào mồ bới mả những chiến sĩ QLVNCH đang yên nghỉ tại nghĩa trang Biên Hoà.

        Nếu chúng ta thử so sánh cuộc chiến giữa quân Miền Nam và Miền Bắc Hoa Kỳ, chúng ta sẽ nhận ran ngay sự khác biệt giữa người Quân Tử và kẻ Tiểu Nhân.

Nó hoàn toàn khác biệt với tinh thần của người Mỹ trong cuộc nội chiến Nam bắc Hoa Kỳ. Hãy xem người Mỹ viết gì tại nghĩa trang những chiến binh Miền Nam

 

“Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”

            Một sự trùng hợp lạ lùng về ngày quân đội miền Nam (Hoa Kỳ) đầu hàng là ngày 9 tháng 4 năm 1865.  Ngày mà quân đội miền Nam Việt Nam đầu hàng là ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cũng vào tháng Tư Đen và hai con số cuối của năm (65 – 75). Cách nhau đúng 110 năm. Nhưng cách đối xử hoàn toàn khác nhau, điều này cũng đủ nói lên tính chất cao thượng của người quân tử và kẻ tiểu n

Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 140 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam, khiến cho quân miền Nam hết đường tháo lui.  Bộ tham mưu của Tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu hàng.

Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho Tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.

Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua. Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận. 

Buổi trưa ngày lịch sử đã điểm, đó là ngày 9 tháng 4 năm 1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau Tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.

            Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi Tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.

            Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Người quân nhân được tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính miền Bắc. Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản, nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.

            Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen’s Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục.

Điều này khác hẳn với quan niệm của người Việt Nam. Khi một người Việt Nam bên thua cuộc bị sỉ nhục, thì làm tăng thêm lòng kiêu binh của người lính bên thắng cuộc. Người cộng sản Việt Nam không xem người thua cuộc miền Nam Việt Nam là đồng bào.

            Và hình Tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình Tướng Lee ký tên trong bản thoả thuận đầu hàng, và ông cưỡi ngựa ra đi, đã được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.  Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee Highway, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng.

Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.

            Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là “Confederate Section”.

Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.

            Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ. chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc

                                                 

Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”

Not for fame or reward
Not for place or for rank
Not lured by ambition
Or goaded by necessity
But in simple
Obedience to duty
As they understood it
These men suffered all
Sacrificed all
Dared all-and died.

Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng….

Trong khi đó, Việt Nam sau biến cố 1975, Cộng sản Bắc Việt đã đối xử tàn độc, dã man đối với chiến binh QLVNCH và người dân VNCH. Họ đã trả thù bắng cách đày đọa những người lính bên thua cuộc, phải tù đày trong các trại tập trung cải tạo, bằng bản án cao su, không có thời gian, có người đã phải ngồi tù 20 năm.  

Hôm nay tôi viết lại ngày tưởng niệm tháng tư đen, tưởng niệm ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà lòng vẫn ngậm ngùi thương xót đến những người chiến sĩ bên thua cuộc. Chính tôi cũng phải trải qua 8 năm tù tội, lưu đày trên vùng rừng núi Việt Bắc.

Tháng 4 năm 1975 và tháng 4 năm 2021, đã trải qua 46 năm, chúng ta lại bồi hồi nhớ đến những vị tướng miền nam, những vị anh hùng không phân biệt cập bậc hay chức vụ, đã tuẫn tiết chết theo thành. Chúng ta lại đau xót nhớ đến vị Đại Tá VNCH đó là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, ông đã bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ, với lời nói bất hủ trước khi bị xử bắn: 

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy quân”

 AET Lê Tuấn

 


Em Cúi Xuống

Em cúi xuống để rơi ngàn giọt lệ
Khóc cho đất, cho mộ đá không tên
Cho đêm về lung linh ngọn nến trắng
Tấm thẻ bài chợt lóe sáng trong đêm.

Em cúi xuống thắp nén nhang tình nghĩa
Ngọn gió chiều làn khói tỏa bay cao
Đời chiến sĩ, linh thiêng còn vọng lại
Giữ Quê hương. Hồn bất khuất tự hào.

Em cúi xuống chắp tay quỳ bái lậy
Lệ tuôn trào vị mặn thấm trên môi
Thời chinh chiến viết đầy trang Quân Sử.
Sao còn nghe lòng trĩu nặng khôn nguôi.

Em cúi xuống lệ tuôn trào thương xót
Khóc cho người vì Tổ Quốc Vong Thân
Việt Nam ơi ! Lắng nghe hồn sông núi.
Ngọn lửa thiêng, thắp sáng bóng chinh nhân.

Lê Tuấn


Buông Rơi Súng Trận

Bình cũ rót đầy rượu đắng cay
Men nồng vị ngọt thoáng hương say
Mời người xa vắng thăm tình bạn
Uống cạn hôm nay, chén vơi đầy.

Thời đó ngày xưa tao với mày
Đã từng tham dự tiệc chia tay
Rừng chiều chia lối hai đơn vị
Mày ở đồi kia, tao chốn này.

Bạn cũ lâu ngày gặp lại nhau
Uống cạn men say xoá tan sầu
Chiến trận hào hùng thời ly loạn
Tao mày vẫn sống tuổi bạc đầu.

Chợt nhớ ngày xưa giữa tang bồng
Buông rơi súng trận, bàn tay không
Ngước mặt nhìn trời, buồn ly biệt
Tao mày ôm hận nợ núi sông.

AET. Lê Tuấn

 

Bóng Người Xưa
Hồn Đá Vẫn Tôn Thờ.


Bước khẽ thôi cho đất nằm yên nghỉ
Để rừng hoang che khuất bóng trong mưa
Hồn phế tích, ngả nghiêng trong thành cổ
Bom đạn thù, tàn phá chiến tranh xưa.

Chiều phố núi, ta về thăm chốn cũ
Rừng hoang vu, thoáng hiện bóng chinh nhân.
Chiến trường đó, nơi địa đầu giới tuyến
Nén nhang buồn, lan tỏa ngọn phong vân.

Chiều giới tuyến, sau bao năm cách biệt
Ta về thăm, bia mộ đá hoang sơ
Đất im lặng, cỏ buồn phơi sắc úa
Bóng người xưa, hồn đá vẫn tôn thờ.

Người nằm đó, nghe hồn thiêng sông núi
Chợt bồi hồi, ngọn gió núi khóc than.
Người chiến sĩ, người trai hùng bất diệt
Sáng muôn đời. Hồn Vị Quốc Vong Thân.

AET Lê Tuấn

Tháng Tư Về Rất Muộn

Em có biết, tháng Tư về rất muộn
Tiếng bom rơi, đạn xé gió đi tìm
Và có tiếng, đoàn người đi rất vội
Trốn quân thù, loài giặc đỏ không tim.

Tháng Tư về, ghé thăm vùng hoả tuyến
Chợt giật mình, nhìn lại bóng thời gian
Đoàn Hùng Binh, đứng chờ trong hoài niệm
Tro bụi thời gian, vẫn cháy đỏ chưa tan.

Đêm đen tối, tháng Tư ngày Quốc Hận
Cuối đường chiều, còn lạc bước nơi đâu
Trên đất khách, lòng bồi hồi tưởng nhớ
Tháng Tư buồn, nỗi nhớ gợi thêm sầu.

AET. Lê Tuấn


                         Khóc Tháng Tư Đen

Lê Tuấn

           Mỗi năm khi bắt đầu bước vào tháng tư, thì tâm hồn của người Việt Tự Do lại bồi hồi xao xuyến, nhớ về những ngày tháng đau buồn mà tháng Tư đã để lại, rồi từ đó ngôn từ (Tháng Tư Đen) được truyền thông nhắc đến.

         Đối với người Việt Tự Do thì ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày "Quốc Hận" ngày đau buồn nhất của người dân miền Nam VN đó chính là ngày mất nước, đúng như vậy không những miền nam VN đã bị cộng sản xâm chiếm mà chính miền bắc VN cũng bị cộng sản (Trung Cộng) xâm chiếm.

Chúng ta hãy nhìn lại xem tình hình chính trị tại VN hiện nay, toàn thể bộ máy chính quyền của cộng sản VN đang nằm trong tay Trung Cộng. từ đất liền cho đến hải đảo, đang mất dần vào tay Tầu Cộng, người dân đang quằn quại đau thương và đang chết dần trong đầu độc thực phẩm từ Tầu khựa, đang bị bóp chết dần trong sự kiềm tỏa kinh tế từ Trung Cộng. 

Ngày 30 tháng 4 chính là ngày quốc hận của toàn thể dân tộc Việt Nam.

         Mỗi năm đến ngày 30 tháng 4, đảng cộng sản VN tổ chức ăn mừng chiến thắng, họ nâng ly (rượu máu) để chúc mừng nhau, tâng bốc cho nhau mà họ không bao giờ nghĩ đến tiền đồ đất nước, không bao giờ nghĩ đến cái đau của dân oan, đang quằn quại rên siết dưới sự bạo tàn của (bọn dư luận viên một thứ hồng vệ binh mới, do Trung cộng điều khiển) và của những con người không có trái tim, đó là lực lượng (cộng an trị). Có một câu nói của Võ Văn Kiệt (Thủ Tướng VC) ông ta đã nói:  

"Ngày 30 tháng 4 có hàng triệu người vui, thì cũng có hàng triệu người buồn" kể ra ông ta còn có một chút lương tâm, nếu muốn nói cho hết ý nghĩa này thì phải nói như sau:

Có hàng triệu đốm lửa đốt sáng của pháo hoa để ăn mừng, thì cũng có hàng triệu đốm lửa lập lòe, trên đầu nén nhang, đang âm thầm cắm trên bát nhang nơi bàn thờ, hay trên những ngôi mộ đá trong nghĩa trang buồn ngày cuối tháng Tư đen. Không biết bao nhiêu giấy mực đã viết về Tháng Tư Đen, không biết bao

nhiêu giọt nước mắt đã tuôn rơi, để khóc thương cho sự mất mát người thân, khóc thương cho những mảnh đời phải vội vã chia ly.

 Viết cho tháng 4 đen

AET. Lê Tuấn


Khóc Tháng Tư Đen

Buồn lắm tháng Tư, khóc từ đâu
Giữa trời đất lạ, gợi thêm sầu
Tiếc thương chiến sĩ, hờn vong quốc
Giải khăn sô trắng, quấn ngang đầu.

Đau lắm tháng tư, phủ màu tang
Hàng triệu người đi, bỏ xóm làng
Con đường quốc lộ, thây người chết
Xác chồng lên nhau, thịt nát tan.

Còn đó tháng tư, lửa hờn căm
Đốt lên hàng triệu nén nhang buồn
Khói hương phong tỏa ngày Quốc Hận.
Cho dòng lệ khóc, gió mưa tuôn.

Khóc thương vận nước vẫn nổi trôi
Tháng Tư ngày đó, bỗng bồi hồi
Lá cờ cuốn lại, Tự Do mất
Uất nghẹn trào dâng, nước mắt rơi.

Aet. Lê Tuấn


Sài Gòn Ngày Cuối Tháng 4 Đen

Giữa mênh mông, đất trời vang tiếng súng
Đêm Sài Gòn, ngày cuối tháng 4 đen
Thành phố bàng hoàng, trắng đêm không ngủ
Nghe sôn sao, nghe tiếng gọi chưa quen.

Người gác đêm, mở tròn xoe đôi mắt
Nhìn lũ điên, chạy khắp phố trong đêm
Mẹ Việt Nam, bàng hoàng rơi nước mắt
Nhìn đàn con, tan nát khắp bao miền.

Bà cháu giắt nhau, cuống cuồng chạy giặc
Mẹ gọi con, chồng dục vợ đi nhanh
Gánh quê hương, ra đi tìm đất mới
Lòng quặn đau, tan tác kiếp lưu đầy.


Quân Cộng Sản, tràn vào hô giải phóng
Đem tự do, đốt cháy giữa sân trường
Đem nhân quyền, trà đạp không thương tiếc
Giải phóng đây sao? Cả miền Nam tang thương.

Giải phóng đây sao? Hỡi loài quỉ đỏ!
Quỉ đến đâu, dân chạy trốn không ngừng
Triệu người vượt biển, triệu người đau xót
Biển Đông than khóc, tiếng thét giữa rừng.

Từ mênh mông, biển Đông vang tiếng sóng
Sóng hận thù, biển đau nhói Việt Nam
Rừng bật khóc, khóc cho người nằm xuống
Cho quê hương còn tăm tối lầm than.

AET. Lê Tuấn

 


                                          Anh Hùng Tử - Khí Hùng Bất Tử

 Hãy Vinh Danh Những Chiến Sĩ Anh Hùng

Đã Tuẫn Tiết Trong Ngày 30 Tháng 4 năm 1975

        Tháng 4 đen ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975. Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử trong bàn cờ quốc tế. Đã để lại nhiều hệ luỵ rất đau buồn, khiến cho gia đình ly tán. Chúng ta nên tự hỏi đã có bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đã tự sát, không chịu đầu hàng trong ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975. Những vị Anh Hùng những chiến sĩ QLVNCH đã tự sát trong ngày cuối cùng của Quân Lực VNCH.

Tôi thử đi tìm và nhận ra một danh sách khá dài, những vị anh hùng đã tuẫn tiết không chịu đầu hàng cộng sản. Tôi nghĩ danh sách này cũng chưa đủ, có thể sẽ còn nhiều hơn nữa, những vị anh hùng đã tuẫn tiết hy sinh trong ngày mất nước mà chúng ta chưa biết đến, không phải chỉ có những cấp Tướng, cấp Tá, hay Sĩ quan trong quân đội, mà ngay cả những chiến sĩ không cấp bậc, những người lính rất bình thường như Địa Phương Quân, Nghĩa Quân cũng đã tuẫn tiết hy sinh, không để bị rơi vào tay cộng quân.

Chính những người chiến sĩ can trường này, đã trở thành những vị anh hùng thắp sáng ngọn lửa oai hùng cho QLVNCH.

Sau đây là danh sách các vị Anh Hùng đã tự sát trong ngày cuối cùng của miền nam Việt Nam.

 Hãy vinh danh các vị Anh Hùng của QLVNCH.

Anh Hùng Tử - Khí Hùng Bất Tử

Danh sách các quân nhân Quân Lực VNCH đã tự sát trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.

Cấp bậc    -     Họ tên    -    Chức vụ   -    Đơn vị    -    Ngày tự sát.


1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Khóa 16 Đà Lạt. 31/31975 tự sát tại Quy Nhơn
7- Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ông đã bị Việt Cộng xử bắn ngày 14 tháng 8 năm 1975 mặc dù ông không tự sát, như những vị anh hùng khác nhưng khí tiết anh hùng hiên ngang gục chết trước pháp trường đã làm cho cộng quân phải khiếp sợ, cái chết của ông là bản anh hùng ca còn lưu giữ mãi trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
8- Thiếu Tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ.
    Tự sát30/4/75 tại BTLKQ
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 An Ninh Quân Đội.
      Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh Quân Đội
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
13- Trung Tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101 Bộ TTM. Tự sát ngày 30/4/1975
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/1975
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/75
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
21- Đại Úy Tạ Hữu Di, Tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975
      tại cầu Phan Thanh Giản
24- Trung Sĩ Trần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, Quận Trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ, Tiểu Khu Hậu Nghĩa.

       Tự sát ngày 29/4/1975
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt tự sát ngày 30/4/1975
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2     

       Bộ TTM.Tự sát ngày 1/5/75
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn,

      thơ, soạn kịch, bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, Trưởng phái  

      đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng         

      30/4/75 tại P2/Bộ TTM
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Cảnh sát đặc biệt, tự sát ngày 30/4/1975
      tại Thanh Đa, Sài Gòn
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập

      thể cùng 7 chiến sĩ Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự  

       sát cùng vợ con 30/4/1975
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát

       30/4/1975 tại Kiến Hòa
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa

       72). Tự sát chiều 30/4/1975
36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng

      súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày

       30/4/1975 tại Vũng Tàu
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày

      30/4/1975. Cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

 

Danh Sách Những Anh Hùng Cảnh Sát Quốc Gia Đã Tuẫn Tiết

 

1- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, cựu Tổng Giám Đốc CSQG, tuẫn tiết tại Bản

     doanh Sư Đoàn 7 Bộ Binh lúc 6 giờ chiều ngày 30/4/1975.

2- Trung Tá Nguyễn Văn Long, Chánh Sở Tư Pháp BCH/CSQG Khu 1, tuẫn tiết   

     duới chân tượng đài TQLC trước trụ sở Hạ Viện Sài Gòn sau khi Ông Dương  

     Văn Minh tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt sáng 30/04/1975.

3- Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh, Quân Nhân Biệt Phái, Trưởng Phòng Trung Ương Kỹ

     Thuật trực thuộc Văn Phòng Tư Lệnh CSQG, cùng vợ và 7 con uống thuốc độc   

     tự vẫn tại nhà riêng ở Ngã Ba Ông Tạ Sài Gòn sáng 30/4/1975, trong đó có con  

     trai trưởng là Trung Uý Đặng Trần Vinh, Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu.

4- Trung Tá Nguyễn Văn Đức, nguyên CHT Biệt Đoàn Cảnh Sát Lưu Thông

     BCH/CSQG Thủ Đô, tuẫn tiết bằng súng lục tại VP của Thiếu Tướng Đỗ Kế  

     Giai, CHT Biệt Động Quân, khi Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CS.

5- Trung Tá Đỗ Thanh Liêm, BTL/CSQG, tự sát tại trại giam ở biên giới Việt

     Miên.

6- Trung Tá Võ Tuyết Hồ, Khối ĐB, BTL/CSQG tự sát trong lúc di tản qua khu

     rừng Sát khi nghe tin Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

7- Thiếu Tá Đỗ Minh Hoàng, Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG Quận Bình Phước,

     Tỉnh Long An, tự sát tại Cầu Quay Mỹ Tho ngày 30/4/75.

8- Trung Uý Ngô Văn Cho, Phó Trưởng Cuộc Võ Tánh, BCH/CSQG Quận Nhì

     Sài Gòn và 6 người trong gia đình đã tự sát bằng súng lục đêm 2/5/1975 tại Cư

     Xá Quận Nhì, Sài Gòn.

9- Trung Uý Nguyễn Văn Cảnh, Phó Trưởng Cuộc CSQG Phường Xóm Chiếu,

     BCH/CSQG Quận 4 Sài Gòn, tự sát trong ngày 30/4/1975 tại Văn Phòng Cuộc.

10- Trung Uý Du, không rõ họ, Trưởng Cuộc CSQG, tự sát cùng gia đình ngày

      30/4/1975 tại Sài Gòn.

11- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Khóa 6 Học Viện CSQG, Cơ Quan D6 (Trung Tâm

      Thẩm Vấn) Khối Đặc Biệt BTL/CSQG uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở Cư

      Xá Thanh Đa Sài Gòn, được gia đình phát giác đưa đi bệnh viện cứu sống,

      nhưng sau đó Thiêu Uý Nguyễn Phụng đã quyết tâm tự sát lần nữa bằng cách

      cắt đứt gân máu tay của mình.

12- Thiếu Úy Nguyễn Thiếu Liêm, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 30/4/75.

13- Thiếu Uý Nguyễn Văn Lung, BTL/CSQG, kê súng bắn vào đầu tự sát ngày

      30/4/75 nhưng được cứu sống.

14- Thượng Sĩ Võ Văn Cẩm, BCH/CSQG Biên Hòa, tự sát tại Nhơn Trạch, Biên

      Hòa ngày 30/4/75.

15- Thượng Sĩ Bùi Văn Mương, G.ĐB Quận Củ Chi, tự sát 30/4/75.

16- Thượng Sĩ Trần Văn Phát, Sĩ Quan Phụ Tá G.ĐB Quận Củ Chi, tự sát

      30/4/75.

17- CH Dung, không rõ họ, cấp bậc, nhân viên CSĐB Tân Thông, tự sát 30/4/75.

18- CH Trần Khả, không rõ cấp bậc, Trưởng Cuộc Hoà Thắng, Phú Yên tự sát tại

      nhà ngày 31/3/75.

19- Trung Sĩ 1 Nguyễn Xuân Ba, BCH/CSQG Tỉnh Bình Định, tự sát ngày 2/4/75

      tại Bình Định.

20- Trung Sĩ 1 Lê Thành Chương, BCh/CSQG Tỉnh Bình Định, tự sát ngày

      2/4/75 tại Bình Định.

21- Trung Sĩ 1 Ngô Xuân Lạc, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 2/4/75 tại Bình

       Định.

22- Trung Sĩ Nguyễn Du, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 2/4/75 tại Bình Định.

23- Thượng Sĩ Trần Thi, G.ĐB Quận Tư Nghĩa Quảng Ngãi, tự sát trong đêm

      Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

24- Thượng Sĩ Nguyễn Hồng Lạc, Cựu Trưởng Cuộc Tư Quang, Quận Tư Nghĩa,

       tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/1975.

25- Trung Sĩ 1 Huỳnh Vĩnh Bá, G.ĐB Quận Sơn Tịnh, tự sát bằng súng cùng với

       gia đình trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

26- Trung Sĩ 1 Nguyễn Văn Quế, G.ĐB Quận Sơn Tịnh Quảng Ngãi, bị Cộng Sản

       bắt và dẫn về nhà để lấy tài liệu mật báo viên. Tại tư gia, trong lúc giả vờ đi

       đem hồ sơ MBV, TS Quế lấy lựu đạn đã được cất dấu tại nhà, mở chốt tự sát

       và gây thương tích cho hai tên VC áp giải và vợ con.

27- Trung Sĩ 1 Lâm Tài, F. ĐB Quảng Ngãi, chiến đấu và tự sát trong một cái

       chòi ở Xã Sơn Long, Quận Sơn Tịnh, Quảng Ngãi khi bị VC phát hiện tấn

       công, trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

28- Trung Sĩ 1 Lê Minh Xuân, nhân viên G Nghiên Cứu F Đặc Biệt Quảng Ngãi,

       tự sát tại nhà.

29- Trung Sĩ 1 Huỳnh Trần Bá, G.ĐB Quận Đức Phổ, Tỉnh Quảng Ngãi, ném lựu

       đạn gây cộng quân tử thương tại Bình Liên, quận Bình Sơn sáng ngày 25/3/75

       và đã tự sát sau đó.

30- Trung Sĩ 1 Nguyễn Tiền, Cuộc Bình Hoàng, Quận Bình Sơn, tự sát trong đêm

      Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

31- Thiếu Uý Đinh Văn Hường, Trưởng Cuộc Ba Xuyên, Quận Ba Tơ, tự sát tại

      Trại Gia Binh Thiết Giáp Xã Tư Chánh, Quận Tư Nghĩa trong đêm Quảng

      Ngãi di tản 24/3/75.

32- Thượng Sĩ Đoàn Văn Nhược, Phó Trưởng Cuộc Nghĩa Hưng, Quận Nghĩa

      Hành tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

33- Trung Sĩ 1 Trần Đức Một, Biệt Phái Toà HC Tỉnh Quảng Ngãi, tự sát trong

      đêm Quảng Ngãi di

34- Thượng Sĩ Bùi Đức Tôn, F.ĐB Quảng Ngãi, tự sát trong đêm Quảng Ngãi di

       tản 24/3/75.

35- Trung Sĩ 1 Huỳnh Quang Thông, Thẩm vấn viên F. ĐB Qủang Ngãi, tự sát

       trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

36- Thượng Sĩ Vũ Phúc Loan, Trại Tạm Giam BCH/CSQG Tỉnh, tự sát trong

      đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

37- Nguyễn Văn Tiểng, Đại Đội 106 CSDC, tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản

      24/3/75.

38- Trung Sĩ 1 Trương Vận, G.ĐB Quận Bình Sơn, tự sát trong đêm Quảng Ngãi

      di tản 24/3/75.

39- Trung Sĩ 1 Phạm Văn Tuyển, Trung Đội Phó, Đại Đội 106 CSDC Quảng

       Ngãi, tự sát tại Bình Liên, Quận Bình Sơn trong đêm Quảng Ngãi di tản

       24/3/1975.

40- Trung Sĩ 1 Nguyễn Phú, G.ĐB Quận Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam, tự sát cuối

       tháng 3/75.

41- Trung Sĩ 1 Nguyẽn Văn Tố, G.ĐB Quận Cai Lậy, Tỉnh Định Tường, tự sát tại

      Trại Mỹ Phước Tây, Cai Lậy.

42- Thiếu Úy Võ Công Hạnh, BCH/CSQG Quảng Nam, tự sát tại Trại Phú Túc,

      Quảng Nam.

43- Trung Uý Mã Phúc Hiệp,Trưởng Cuộc CSQG, trốn trại và tự sát tại nhà trong

       khi bị VC truy bắt.

44- Thiếu Uý Nguyễn Văn Lắm, Khóa 4, Trưởng G ĐB Quận Đức Thịnh, Tỉnh Sa

       Đéc, tự sát 30/4/1975.

45- Trung Úy Trần Văn Kha, K2 HVCSQG, tự sát trên đường số 7 Tuy Hòa trong

      di tản.

46- CSV Trần Hữu Viên, G. Đặc Biệt Quận Phước Ninh, BCH/CSQG Tỉnh Tây

       Ninh, tự sát tại Khách Đình, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh tối 30/4/1975.

47- Thiếu Úy Hoàng Xuân Lân, Trưởng Cuộc Bình Tân, BCH/CSQG Quận Hòa  

       Lạc, Tỉnh Gò Công, tự sát lúc 11 giờ sáng 30/4/1975.


Danh sách bao gồm 47 chiến sĩ trong lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia thiết lập. Tôi đã sưu tầm trên trang Website Cảnh Sát Quốc Gia VNCH.
        Tôi nghĩ danh sách này có thể còn dài hơn, vì chúng ta không có đủ dữ liệu để cập nhật theo danh sách “Anh Hùng Tử - Khí Hùng Nào Tử”
        Những anh hùng vô danh của Quân Lực VNCH được nhắc nhở đến với tinh thần “anh hùng tử, khí hùng nào tử”. Người anh hùng chết nhưng chí khí anh hùng không chết. Các vị tướng lãnh đã tuẫn tiết được nhớ đến như “sinh vi tướng, tử vi thần” Sống làm tướng, chết thành thần.
        Tưởng niệm, vinh danh những anh hùng đã vị quốc vong thân không gì bằng chúng ta hãy tiếp bước theo ý chí của những vị anh hùng, để nêu cao ý chí bất khuất trong cuộc chiến mới. Đó là đấu tranh trên mọi bình diện “Văn Hoá” để đem đến nền dân chủ, tự do cho đồng bào Việt Nam trong cả nước. Mang lại những quyền tự do căn bản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10 tháng 12, 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.

        Đảng Cộng Sản Việt Nam không xứng đáng lãnh đạo đất nước vì đảng, độc tài đảng trị, tham nhũng, nhất là thái độ hèn với giặc, ác với dân, nhưng tội nặng nhất là truyền thống bán nước của đảng, từ Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Linh, đến Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu và sau đó là Lê Đức Anh, đã dâng hiến các đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng.

        Tội lớn nhất của cộng sản là đưa cả dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo, vô nhân bất nghĩa, đã bị kết án về tội diệt chủng và tội chống loài người, một chủ thuyết đã bị lịch sử ném vào sọt rác của nhân loại.
         Cuộc chiến tranh Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có một câu hỏi được đặt ra. Cuộc Chiến này ai thắng ai thua?. Nếu chúng ta nhận xét yếu tố thắng thua theo (Binh Pháp Tôn Tử). “Chiếm được thành quách chưa phải là người chiến thắng. Mả chiếm đượ lòng dân mới là người thật sự chiến thắng”.

        Trên thực tế mọi người Việt Nam đều nhận ra. Cộng Sản Việt Nam đã xâm chiếm, giải phóng Miền Nam. Nhưng ngược lại, chính tinh thần của người miền Nam đã giải phòng tình thần và nền văn hoá (gông cùm) của miền Bắc.
        Cuộc chiến tranh Việt nam tuy kết thúc những đã để lại nhiều hệ luỵ về đời sống và ngay cả trong suy nghĩ của cả hai bên. Đối với những con người chân chính, những người bên thắng cuộc, không phải họ không biết gì, họ vẫn nhận ra sự sai lầm, khi chính họ đã bị lừa, bị đảng bịt mắt dẫn đưa vào một cuộc chiến tương tàn của dân tộc Việt Nam.
        Hay đọc câu nói này từ (bên thắng cuộc)
"Nếu ai đó hỏi cha tôi 30/04 là ngày gì? Cha tôi sẽ trả lời, đó là ngày mà ông nhận ra mình đã bị lừa dối. Ông và các đồng đội của ông là “Thế hệ bị lừa dối”."
"Còn nếu ai đó hỏi ông muốn gọi 30/04 là ngày gì? Thì tôi xin phép được trả lời thay cho cha tôi, hãy gọi 30/04 là ngày phán xét.

        Cuối cùng, tôi muốn thay mặt cha tôi gửi lời xin lỗi chân thành đến những người lính ở phía bên kia. 30/4 - Ngày phán xét của Việt Nam
        Chúng ta hãy thắp lên nén nhang buồn, hãy thắp sáng nén nhang lòng, để gửi đến Những Anh Hùng bất Khuất, những lời cầu nguyện, cho Hương Linh của các vị sớm siêu thoát, yên nghỉ trên cõi Niết Bàn hay Thiên Đàng

        Nỗi đau lòng không của riêng ai, nỗi đau lòng là của chung mọi người, những con người chân chính, với tấm lòng trắc ẩn về một quá khứ đau thương, mà mỗi năm người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại luôn luôn tưởng niệm.

Ngày phán xét 30 tháng Tư Đen.
Viết và sưu tầm, để tưởng niệm ngày 30 tháng Tư Đen.
AET Tê Luấn

Ta Về
Đứng Giữa Dặm Trường

Ta về rừng hỏi han cùng
Núi vang tiếng gọi nghìn trùng xa xăm
Hoang sơ phiến đá nghiêng nằm
Mộ bia nghiêng đổ, vết tăm tích người.

Hồn chinh nhân đứng giữa trời
Bóng ai thoáng hiện dấu đời đi nhanh
Từ trong hốc đá lạnh tanh
Gió như than khóc, cao xanh nghẹn ngào.

Ta về thăm những chiến hào
Hồn thiêng sông núi còn cao trí hùng.
Rừng xưa che bóng chân dung
Khói hương lan tỏa một vùng đau thương.

Mầu hoa sim tím lạ thường
Kiếp nhân sinh loạn, vô thường mộ xưa
Dòng tâm thức chảy như mưa
Khóc cho thân phận dư thừa lãng quên.

Ta về theo dấu chân quen
Tiếng đêm động vỡ, ngọn đèn soi thân.
Thiên thu mờ mịt xa gần
Đất xa xuống vực, tần ngần khóc thương.

Ta về đứng giữa dặm trường
Hai vai gánh cõi vô thường mà đi.

AET. Lê Tuấn

 

Mộ Bia Xưa

Tường thành cũ mộ bia xưa
Hồn đau lệ ướt, còn chưa phai mờ
Chiều buông sương trắng hững hờ
Tháng tư nấc nghẹn bàn thờ khói hương.

Đợi nhau trên những đoạn trường
Ly hương hội ngộ, đọc chương sử hùng
Tìm trang lệ ướt não nùng
Người xưa anh dũng đứng chung bóng cờ.

Nền vàng sọc đỏ ước mơ
Cờ bay rợp bóng, tự do xứ người
Ngậm ngùi nhang khói giữa trời
Khóc thương vận nước đổi dời buồn đau.

Người về tóc trắng cúi đầu
Chắp tay vái lạy nguyện cầu thánh linh
Một thời gió bụi chiến chinh
Hồn thiêng sông núi hiển linh đất trời.

AET. Lê Tuấn
“ nỗi buồn tháng tư”


Tháng Tư Ngậm Ngùi

Quá khứ chợt về trong hờn tủi
Lục lại thời gian thời chiến chinh
Tìm trong phế liệu mảnh bom vỡ
Ráp lại mà xem chuyện chúng mình.

Lật trang sách cũ lòng thương nhớ
Đọc lại bài thơ bỗng ngậm ngùi
Hồn chiến sĩ cơn đau thổn thức
Dòng lệ buồn thương nhớ sụt sùi.

Một đời người lính già trông thấy
Nợ núi sông buồn trả chưa xong
Lịch sử quên đi thời chiến loạn
Cố lục tim xem những chiến công.

Chỉ tiếc đời trai sao hữu hạn
Còn chưa trả hết nợ núi sông
Lòng vẫn còn đau buồn thế sự
Mà phận con người, cõi hư không.

AET. Lê Tuấn
Tháng 4 , 2020




Nỗi Oan Tháng Tư

Ta rót rượu buồn giải nỗi oan
Tháng tư trời đất nhuộm màu tang
Lòng vẫn nghe đau buồn thế sự
Tiếng động đổi dời vẫn âm vang

Ta tưởng thời gian lướt qua nhanh
Nào ngờ dòng lệ vẫn chứa chan
Dòng máu ân tình còn tuôn chảy
Từ chiến tranh về nhang khói tan.

Tay run ly rượu đầy sóng sánh
Rải xuống thềm, cỏ dại úa vàng
Cơn gió hú. Trời câm đất nín
Đời im lìm mộng lớn chưa thành.

Cúi chào nhau mái đầu tóc trắng
Nghe nặng hồn đau nỗi oan này
Lịch sử ngơi đi cùng năm tháng
Sao tháng tư buồn nhang khói bay.

AET. Lê Tuấn
Tháng Tư 2020