Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Hình ảnh Lễ Giỗ Các Anh Linh Cựu Thiếu Sinh Quân 2018

Sunday November 18, 2018. Hội Cựu Thiếu Sinh Quân Tổ chức Lễ Tưởng Niệm Anh Linh Cựu Thiếu Sinh Quân.





































Photography by Lê Tuấn



Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018

Đàn cá Hồi - Chuyện ngụ ngôn - Di cư 1954


Kỳ lạ: Đàn cá hồi bơi trước mũi ô tô qua tuyến đường ngập nước để kiếm tìm bạn tình ( chúng biết mình đang sống ở đâu...!)
Đến hẹn lại lên, cứ vào dịp này trong năm, đàn cá hồi lại tụ tập ở tuyến đường ngập nước, bơi trước mũi ô tô băng qua đường để kiếm tìm bạn tình.
Cảnh tượng kỳ thú của thế giới tự nhiên được các vị khách đi ngang qua ghi lại, quay cảnh đàn cá hồi thoăn thoắt vượt qua tuyến đường ngập nước, bơi ngay trước mũi ô tô để qua đường tìm kiếm bạn tình vào mùa sinh sản.
Đàn cá vượt qua đường ngay trước mũi ô tô để bước vào mùa sinh sản

Đến hẹn lại lên, cứ vào mùa này trong năm, du khách lại có dịp tận mắt chứng kiến khoảnh khắc ấn tượng này. Hình ảnh được ghi ở quãng đường bị ngập nước dọc theo sông Skokimish thuộc Washington, Mỹ. Các chuyên gia cho biết, những cơn mưa lớn khiến nước sông Skokomish tràn bờ. Đó cũng là thời điểm cá hồi vào mùa đẻ trứng.
Khi ấy, các tài xế lái xe qua tuyến đường ngập nước sẽ bắt gặp cảnh đàn cá hồi vượt mũi ô tô băng qua đường. Đó là đàn cá hồi từ Thái Bình Dương trở về. Chúng đang trên đường “về nhà”. Cảnh quen thuộc ấy thường diễn ra từ tháng 11 đến tháng 12 hàng năm. Những chú cá hồi “dũng cảm” và đủ khỏe mạnh sẽ tìm kiếm bạn tình để bước vào mùa sinh sản.

"Vận động viên" kỳ cựu vượt đường

Đàn cá phải kiếm được “đối tác” và tìm nơi đẻ trứng. Quá trình đẻ trứng sẽ thất bại nếu chúng không về được dòng chảy chính. Tuy nhiên, không phải con nào cũng vượt qua quãng đường thành công. Người ta vẫn thấy những con chết giữa đường vì đuối sức, hoặc do ô tô đâm phải.


Cá hồi chùm băng qua đường để trở về nhà.


Con cá hồi chum gặp khó khăn khi băng qua đường.


Người lái xe sẽ phải hết sức chú ý để tránh cán qua cá hồi chum.


Mỗi năm một lần, những con cá hồi chum lại tập trung ven tuyến đường bị ngập nằm dọc sông Skokomish (Washington, Mỹ) và canh lúc không có ô tô để lao qua đường


Cứ vào mùa mưa, nước sông Skokomish (Washington, Mỹ) lại chảy tràn bờ khiến tuyến đường ven sông ngập úng. Các tài xế lái xe qua đoạn đường này khi ấy buộc phải di chuyển thật chậm và cẩn thận kẻo đâm trúng... cá hồi.


Hành vi bơi qua đường kì lạ này gần như không gặp ở bất kì loại cá hồi nào khác ngoài cá hồi chum. Bởi việc bơi với mực nước thấp như vậy sẽ khiến toàn bộ phần thân trên của cá nổi lên khỏi mặt nước trong một thời gian dài, đòi hỏi những chú cá phải thật khỏe nếu không sẽ thiếu oxi mà chết giữa đường.


“Kĩ năng bơi qua đường của cá hồi chum lão luyện đến mức đáng ấn tượng”, Aaron Dufault nói.


Tuy nhiên, không phải chú cá hồi bơi qua đường nào cũng may mắn. Đôi khi vẫn xảy ra trường hợp cá hồi bơi... lạc, tắc thở chết giữa đường hoặc bị ô tô cán trúng.


Cá hồi chum là một loài cá hồi đặc biệt. Khi vừa nở ra khỏi trứng, những con cá hồi chum sẽ bơi thẳng ra cửa sông thay vì ở lại trong vòng nước ngọt từ 3 đến 5 năm đợi trưởng thành như những loài cá hồi khác

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhà vua và vị đại thần thông minh

Ngày xưa, có một vương quốc nhỏ, dân số không nhiều. Cuộc sống của người dân trong vương quốc vô cùng thảnh thơi, vui vẻ. Bởi vì họ có một vị vua không thích ngồi yên một chỗ và một vị đại thần không thích làm quan.

Đặc điểm lớn nhất của vị đại thần thông minh này chính là thái độ tích cực. Bất luận gặp việc gì ông cũng đều nhìn mặt tích cực của nó, tuyệt đối từ chối quan điểm tiêu cực. Do luôn giữ thái độ tích cực nên vị đại thần đã giúp nhà vua xử lý tốt rất nhiều chuyện rắc rối. Vì thế, nhà vua rất coi trọng ông ta và thường xuyên hỏi ý kiến ông.
Ngoài thú vui săn bắn ra thì nhà vua cũng không có ham muốn xấu xa nào cả. Nhà vua thích nhất là đi vi hành cùng với vị đại thần thông minh của mình. Vị đại thần thông minh ngoài việc xử lý chính sự thì còn có nhiệm vụ cùng đi vi hành với nhà vua. Những lúc rảnh rỗi, ông ta rất thích nghiên cứu chân lý nhân sinh, vũ trụ. Câu nói cửa miệng của ông ta chính là: “Tất cả đều là sự an bài tốt nhất!”.
Có lần, nhà vua cao hứng mở cuộc đi săn. Tùy tùng đi theo có hơn mười người thợ săn. Nhà vua thân thể tráng kiện, da dẻ hồng hào, cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn săn truy đuổi con báo. Phong thái nhà vua thật uy nghi, lẫm liệt, đầy khí chất của một quân vương. Con báo ra sức chạy thoát, nhà vua đuổi sát không rời. Đến khi con báo mệt mỏi, nhà vua giương cung bắn một phát. Mũi tên lao đi như bay, trúng ngay vào cổ con báo, khiến nó ngã lăn ra đồng cỏ.

Rất đỗi vui mừng, nhà vua nhìn con báo nằm bất động dưới đất hồi lâu. Nhất thời buông lỏng cảnh giác, nhà vua xuống ngựa, đến gần để kiểm tra. Nào ngờ, chỉ chờ thời khắc đó, con báo dùng chút sức lực cuối cùng nhảy chồm lên vồ lấy nhà vua. Nhà vua lạnh người nhìn cái họng đỏ lòm đầy răng nhọn của nó, thầm nghĩ: “Tiêu rồi!”.
Cũng may đoàn tùy tùng đuổi đến kịp lúc, giương cung bắn vào cổ họng con báo. Lần này thì con báo chết thật.
Đoàn tùy tùng ùa đến hỏi han. Nhà vua nhìn xuống, thấy một ngón tay đã bị con báo cắn đứt phân nửa, máu chảy ròng ròng. Quân hầu vội vàng băng bó cho vua. Mặc dù vết thương không nặng lắm nhưng nó đủ khiến nhà vua buồn bực trong lòng. Định mắng bọn thủ hạ một trận nhưng nghĩ lại là lỗi do mình khinh suất nèn chẳng thể trách ai. Cả đoàn lẳng lặng thu xếp hành trang hồi cung.

(Ảnh minh họa/Internet)

Sau khi về cung, càng nhớ đến chuyện đó càng bực, nhà vua bèn gọi vị đại thần thông minh đến uống rượu giải sầu. Sau khi nghe chuyện, vị đại thần vừa dâng rượu cho vua vừa mỉm cười nói:
– Tâu bệ hạ! Thiếu một miếng thịt còn tốt hơn nhiều so với mất cả cái mạng! Bệ hạ hãy nghĩ thoáng một chút! Tất cả đều là sự an bài tốt nhất!
Nhà vua vừa nghe liền tuôn hết buồn bực trong lòng:
– Ngươi thật to gan! Ngón tay ta mất mà nhà ngươi còn bảo rằng đó là sự an bài tốt nhất?
Thấy nhà vua nổi trận lôi đình, vị đại thần chẳng mảy may quan tâm. Ông nói:
– Bệ hạ, thật sự là thế mà! Nếu chúng ta có thể vượt qua sự thành bại, được mất nhất thời thì quả thực tất cả đều là sự an bài tốt nhất.
Nhà vua nói:
– Thế ta nhốt ngươi vào ngục, đó cũng là sự an bài tốt nhất?
Vị đại thẳng thắn mỉm cười nói:
– Nếu đúng là vậy thì thần cũng tin rằng đó là sự an bài tốt nhất.
Nhà vua nói:
– Nếu ta gọi thị vệ mang ngươi ra chém thì ngươi cũng bảo rằng đó là sự an bài tốt nhất?
Vị đại thần vẫn mỉm cười; cứ như thể việc nhà vua nói chẳng liên quan đến ông ta:
– Nếu như thế, thần vẫn thật tâm tin rằng đó là sự an bài tốt nhất.
Nhà vua hết kìm nén được, đập tay mạnh xuống bàn. Nghe lệnh, hai thị vệ tiến lại gần. Nhà vua bảo:
– Hai ngươi lập tức mang hắn ra chém!
Hai viên thị vệ nhất thời chẳng hiểu đầu đuôi; không biết nên phản ứng ra sao. Nhà vua nói:
– Còn không mau mang đi! Các ngươi còn chờ gì nữa?
Hai viên thị vệ như bừng tỉnh giấc mộng, vội bước đến kéo vị đại thần ra cửa. Nhà vua bỗng thấy hối hận, kêu to:
– Đợi đã, hãy đem hắn giam vào ngục!
Vị đại thần quay đầu lại nhìn nhà vua và mỉm cười nói:
– Đây cũng chính là sự an bài tốt nhất!
Nhà vua phất tay. Hai viên thị vệ kéo vị đại thần đi.
Một tháng sau, vết thương đã lành, nhà vua định gọi vị đại thần đến cùng đi vi hành như trước kia. Nhưng nhớ đến việc mình đã ra lệnh bắt giam ông ta, nhất thời vì sĩ diện nên nhà vua đành đi vi hành một mình.
Đi mãi đi mãi, nhà vua đi đến một khu rừng xa. Đột nhiên, có một đám thổ dân mặt mày xanh đỏ nhảy bổ ra. Chưa đầy một phút, nhà vua đã bị đám thổ dân trói gô lại, mang lên núi. Lúc đó, nhà vua mới chợt nhớ ra hôm nay chính là ngày trăng tròn. Ở vùng này có một bộ tộc nguyên thủy; mỗi khi đến ngày rằm, họ sẽ xuống núi tìm bắt người làm vật tế nữ thần của họ. Nhà vua thở dài:“Thế này thì hết đường thoát rồi!”.
Nhà vua rất muốn nói cho đám thổ dân biết rằng: “Ta chính là vua của xứ này. Hãy thả ta ra, ta sẽ ban thưởng cho các ngươi tiền muôn bạc vạn”. Nhưng miệng đã bị nhét giẻ, nhà vua muốn nói cũng không nói được.
Nhà vua bị dẫn đến một cái chảo to cao quá đầu người, lửa đang cháy phừng phừng. Một thầy tế xuất hiện, bảo mọi người lột sạch quần áo của nhà vua, để lộ long thể khỏe mạnh, tráng kiện. Thầy tế luôn miệng khen ngợi:
– Không ngờ bây giờ còn tìm được vật tế hoàn mỹ đến vậy!
Nữ thần mà họ thờ phụng chính là nữ thần Mặt Trăng – nữ thần tượng trưng cho sự hoàn mỹ. Vì thế, vật tế có thể hơi đen, thấp, xấu nhưng tuyệt đối không được tàn tật.
Sau khi xem xét, thầy tế phát hiện nhà vua có một ngón tay bị thiếu mất một đốt. Tức giận, ông ta nghiến răng, chửi mắng một hồi rồi bảo đám thổ dân đuổi kẻ tàn tật này đi và tìm một vật tế khác.
Thoát hiểm, nhà vua vui mừng khôn xiết, chạy như bay về hoàng cung. Nhà vua ra lệnh thả vị đại thần thông minh, mở yến tiệc ở hoa viên để chúc mừng mình thoát nạn và cũng để chúc mừng vị đại thần thoát khỏi giam cầm.
Nhà vua mời rượu vị đại thần thông minh:
– Khanh nói chẳng sai, quả nhiên tất cả đều là sự an bài tốt nhất. Nếu ngày trước không bị con báo cắn mất lóng tay thì bây giờ cái mạng ta cũng chẳng còn.
VỊ đại thần mỉm cười nói với nhà vua:
– Chúc mừng bệ hạ đã thể nghiệm được cảnh giới mới của cuộc đời.
Một lúc sau, nhà vua chợt hỏi vị đại thần:
– Ta may mắn thoát hiểm, đúng là sự an bài tốt nhất. Nhưng khanh vô duyên vô cớ bị giam vào ngục cả tháng nay, chẳng lẽ đó cũng là sự an bài tốt nhất?
Vị đại thần thong thả hớp một ngụm rượu rồi nói:
– Tâu bệ hạ, người nhốt thần vào nhà lao quả thực là sự an bài tốt nhất! Bệ hạ thử nghĩ xem, nếu thần không ở trong ngục thì ai sẽ là người theo bệ hạ đi vi hành? Nếu bị thổ dân bắt đi để tế thần, bệ hạ vì thiếu mất ngón tay mà thoát nạn, vậy ai sẽ là người thay thế? Chẳng phải là thần sẽ bị bỏ vào chảo nấu sao? Vì vậy, thần xin kính bệ hạ một ly, đa tạ người đã cứu thần một mạng.

Bài học:

Một người có suy nghĩ tích cực luôn giữ thái độ lạc quan trước bất kỳ việc gì thì dù gặp khó khăn, trắc trở, người đó cũng cho rằng đó là sự khảo nghiệm cần thiết trước khi đạt đến thành công. Vì vậy mà họ luôn nghĩ đến mặt tốt đẹp của sự việc, có một tâm thái tích cực đối với cuộc đời!

(Sưu tầm)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Rieng tang cac ban Bac Ky "Ri Cu" tren 65 tuoi...

Từ Hà Nội đến Sài Gòn: Từ di cư 1954 - Đến di tản 1975 trốn chạy cộng sản...
Tháng 6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cô cùng lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hãi. Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội Pháp và quân đội Quốc Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.
Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề lên tiếng về tình hình tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954 mà họ đã loan báo trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định. 
Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.
Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28 tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột nhiên tất cả chìm trong không gian đen thui, nhưng lại cựa mình mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm. 
Đường phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954.

Gia đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể cả 4 gia đình ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8 giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.
Việc di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng rãi vì không ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc valise và túi xách tay gọn nhẹ.
Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lý-Hà Nội vào khoảng giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10 phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tránh nhiễu loạn giao thông. 
Hồi đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo, hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25 phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ý, mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám về muộn đâu.”
Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ không thua các tay đua vòng quanh Đông Dương, xẹt qua trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17 tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.
Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ nàng có nhìn thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng 10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi linh cảm chuyến đi này sẽ lâu lắm., có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp nhiều tình thế rất khó khăn nguy hiểm. 
Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.
Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xã Phủ Lý bị một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại sẵn nay lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.
Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lý trước khi bị địch đánh chận. 
Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.
Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Lúc ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể là hai bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13, 16 hay 19?

Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954 ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ cũng sẵn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.

Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.

Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận Mas-36 và quân phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu và doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rõ ràng là Pháp đang phòng ngừa chính biến chống lại họ.

Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia xòe ra nay nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu này.
Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn lại thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình hình đất nước. 
Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp thì có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.
Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế hiệp định Geneve về Đông Dương được ký lúc sáng sớm ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đã cho đồng hồ ngưng chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày 20. Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.
Hà Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng lòng về tin tức sẽ có cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai thèm để ý. 
Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến thăm và khuyên gia đình tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã mau chóng nhận rõ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa tháng 3 năm 1955.
Những gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân đồ đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng trèo lên giật lá cờ ném xuống đất. 
Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó là quốc kỳ của một nhà nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương vì gạch đá gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.
Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vào Nam bằng phương tiện riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại một phần tham gia đoàn cán bộ xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11 tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối. 


Hình chụp vào tháng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư trên tàu USS Bayfield khi tàu vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc vào Nam.
Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội toàn là thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai lầm để các bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy dài trên má.
Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một vòng lấy cao độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội. Vĩnh biệt miền Bắc. 

Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào Sài Gòn từ đầu tháng 8 năm 1954.
Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn người. 


Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200 đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa Hưng giá chừng 30,000 đồng.
Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao tình nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực cười.
Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn bằng đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đã thay thế bộ Xã Hội trong nhiệm vụ chuyên biệt này. 


Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.
Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn 1 triệu vì có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ dàng. Và không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.
Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng Nguyễn Văn Hinh chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính phủ và lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại loạn lạc mà đổi ý.

Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và thái độ can dự của người Mỹ đã gây được tin tưởng trong một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vàoNam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau Hiệp Định Geneve 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.
Trước hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước. Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về phong tục, ngôn ngữ vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn lại không gây hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đã góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn. 


Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ, tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ Ngô Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư Pháp Lý Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào di cư đối với chính phủ.
Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đòn bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá trên một đồng. 

Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn. Nhiều người mở đài Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đã độc lập rồi, mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số đụng chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam mới nhìn đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.
Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn đầu cuộc biểu tình vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đòi tống xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.
Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ. Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở Nam Việt lúc ấy rất ít.
Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia thị trường lao động đã làm cho đời sống kinh tế miền Nam lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa phương không hài lòng vì nếp sống thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở lại. 


Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư.
Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. Nữ sinh Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo dài được may vòng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính trị.
Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long… sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần dần pha trộn.
Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài Gòn thực hiện trong vòng khoảng một tháng. 


Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau viết ra.
Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đã lôi cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.
Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm Bình Khang bị đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần tiến đến những buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn. Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai đài Huế và Hà Nội.
Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là sau nhiều năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc, đứa thì nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một lúc các giọng khác nhau. 

Về mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng, chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ, tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương của họ còn ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ mới vào Nam.

CUỘC SỐNG VÀ THI CA SƯU TẦM